. PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ
Bài viết vận dụng hướng nghiên cứu “Liên văn hóa” (Intercultural) đang được hưởng ứng rộng rãi trên thế giới, soi vào đối tượng nghiên cứu để khẳng định: Hồ Chí Minh – một tiêu biểu của trí tuệ Việt Nam.
I. Liên văn hóa – Lược sử, khái niệm.
Cả thế giới đang bước vào kỷ nguyên cách mạng 4.0 với sự phát triển chóng mặt về kinh tế, khoa học, y tế,... Là thời của vi điện tử, của kết nối vạn vật, của người máy... nên con người đứng trước cơ hội được thụ hưởng những văn minh mới mẻ nhưng cũng phải đối mặt với những thử thách ghê gớm: nạn thất nghiệp, ô nhiễm môi sinh, dịch bệnh... Trước sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng lớn, con người càng phải cần đến nhau hơn, để đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ, san sẻ. Như trong Đại dịch covid 19 càng thấy rõ sự chi phối giữa các quốc gia càng trở nên mạnh mẽ và cũng gay gắt hơn bao giờ hết. Đó là tiền đề cho sự giao lưu văn hóa diễn ra như một tất yếu và ngày càng sâu sắc. Do vậy nghiên cứu liên văn hóa được đặt ra như là một nhu cầu tự thân. Vì là thành tố cơ bản của văn hóa nên trong văn học, liên văn hóa biểu hiện tập trung và sinh động nhất. Đó cũng là một quy luật phát triển của văn chương luôn có sự kế thừa, tiếp nối, phát triển và nâng cao.
Như một cây xanh cắm sâu chùm rễ khỏe khoắn vào các mảnh đất truyền thống dân tộc và nhân loại rồi vươn cao lá cành quang hợp ánh sáng tư tưởng của thời đại, nên lẽ tự nhiên, những trái cây tác phẩm của nhà văn hóa đã kết tinh trong nó những giá trị tinh hoa để tỏa ra hương vị tư tưởng đặc sắc. Quá trình ấy chính là liên văn hóa được biểu hiện cụ thể trong tác phẩm. Cũng tất nhiên mức độ liên văn hóa đậm nhạt, giàu có, phong phú... khác nhau tùy thuộc vào cái tôi chủ thể nhà văn hóa. Như cấu trúc một tòa lâu đài có nền móng vững chắc là văn hóa dân tộc, cái thân lầu là tư tưởng, tâm hồn, trí tuệ được trổ nhiều cửa sổ ngôn ngữ để đón các luồng gió văn hóa bốn phương, có nhiều cửa chính đón độc giả từ khắp nơi ghé thăm, chiêm ngưỡng, học tập... thế nên càng là nhà văn lớn tính liên văn hóa càng rõ.
Thuật ngữ “đa văn hóa” gần gũi nhưng không đồng nhất với “liên văn hóa”. Đa văn hóa là sự tiếp xúc của nhiều nền văn hóa, là sự cộng gộp mang tính số học giản đơn, bên ngoài. “Liên văn hóa” không chỉ là sự tiếp xúc mà còn là sự xuyên thấm, tương tác, đối thoại lẫn nhau giữa các nền văn hóa, chú ý tới sự phân tích, chọn lựa, hiệu quả giao tiếp, tiếp thu những tri thức mới tạo ra các giá trị văn hóa mới. Về điểm này ta thấy “điển cổ” mà văn chương trung đại hay dùng là một “liên văn hóa”. Đây không phải là câu chuyện “nệ cổ” hay “sùng ngoại” như từng hiểu một cách cực đoan hẹp hòi mà là kết quả của một sự giao thoa văn hóa.
Hiện nay người ta khuôn các dạng tác giả cơ bản tham gia vào quá trình liên văn hóa, gồm:
- Tác giả nhập cư (đến từ nước khác).
- Tác giả viết bằng ngôn ngữ nước khác không phải ngôn ngữ mẹ đẻ.
- Tác giả sống, trải nghiệm nhiều nền văn hóa
- Tác giả chịu ảnh hưởng mạnh từ văn hóa nước ngoài.
- Tác giả là người dân tộc thiểu số viết bằng cả hai ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông.
Vì giao tiếp làm nên văn hóa, cũng đồng thời văn hóa làm nên giao tiếp, do vậy thuật ngữ liên văn hóa (intercultural) thực chất là giao tiếp liên văn hóa (Intercultural communication). Nó còn được gọi tên khác là giao tiếp giao thoa văn hoá (Cross-cultural communication). Người đầu tiên sử dụng khái niệm liên văn hóa là nhà nhân học Edward Hall trong công trình The Silent Language (1959)[1]. Hướng nghiên cứu liên văn hóa phát triển mạnh từ những năm 70 của thế kỷ XX để lý giải sự kết hợp, giao lưu, tiếp biến giữa các cộng đồng có những phương thức, tập quán, thói quen sống và quan niệm, nhân sinh quan khác nhau biểu hiện ở các khía cạnh quan hệ truyền thống và hiện đại, dân gian và bác học, bản địa cụ thể và nhân loại phổ quát. Liên văn hóa trong một tác phẩm cụ thể biểu hiện ở việc học tập, kế thừa, phát triển và nâng cao văn hóa dân tộc, ở tiếp nhận văn hóa có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới để làm giàu có văn hóa nước nhà. Nó được thể hiện ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật, ở nhiều cấp độ nhưng biểu hiện tập trung ở biểu tượng, nhân vật, ngôn ngữ.
Bước vào thời toàn cầu hóa, liên văn hóa được mở rộng, khái quát thành trào lưu triết học liên văn hóa (The Intercultural Philosophy) hướng đến những điểm tương đồng trên nền tảng của những khác biệt văn hóa. Trong nghệ thuật, liên văn hóa cũng là một xu hướng tất yếu, không chỉ là nhận thức đời sống từ cái nhìn dân tộc, mà đa chiều hơn, hướng đến những giá trị phổ quát, nhân loại, hay được gọi là mẫu số chung của văn hóa toàn cầu. Hiện nay ở nhiều nước ra đời môn học Phân tích giao tiếp liên văn hoá (Intercultural Communication Analysis gọi tắt là ICA) có ở nhiều môn học khoa học xã hội. Môn này rất chú tới hiệu quả giao tiếp thể hiện thành các giá trị văn hóa, như một “phần mềm tinh thần” (mental software), là những tiêu chuẩn, những điều mong muốn tác động đến sự lựa chọn văn hóa.
Xét theo nghĩa hẹp, liên văn hóa có trong một nền văn hóa (quan hệ chiều dọc truyền thống/hiện đại), còn gọi là giao tiếp nội văn hoá (intracultural communication). Theo nghĩa rộng là sự mở ra giao tiếp với các nền văn hóa khác. Vì quá nhiều vấn đề như vậy nên liên văn hóa hiện nay chủ yếu hiểu theo quan niệm là sự giao tiếp giữa những nền văn hóa khác nhau.
Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa kiệt xuất, một hiện tượng liên văn hóa kết tinh những tinh hoa giá trị văn hóa của phương Đông và phương Tây, của dân tộc và nhân loại, của truyền thống và hiện đại... nên chúng tôi cũng chủ yếu xem xét những biểu hiện của sự giao tiếp với các nền văn hóa khác. Đối chiếu với các dạng nhà văn liên văn hóa ở trên thì Bác Hồ có ở cả 4 dạng: là tác giả nhập cư (đến từ Việt Nam); là tác giả viết bằng ngôn ngữ nước khác không phải ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng Pháp, Hán, Anh, Nga...); là tác giả sống, trải nghiệm nhiều nền văn hóa (Bác đi 30 năm, tới 54 nước, trải nghiệm sâu sắc nhiều nền văn hóa của phương Đông, phương Tây); là tác giả chịu ảnh hưởng mạnh từ văn hóa nước ngoài (văn hóa Pháp, Trung Quốc, Nga...).
Với trường hợp các nhà văn hóa lớn như Hồ Chí Minh thì hình tượng mà họ sáng tạo ra sẽ không có đáy, nói mãi không cùng. Do vậy công việc nghiên cứu sẽ là của nhiều người, nhiều thế hệ tiếp nối nhau mãi mãi. Để mở được mã, nhà nghiên cứu phải có chìa khóa vàng được rèn từ mỏ quặng vốn sống, vốn hiểu biết văn hóa, vốn trải nghiệm. Và không thể thiếu chất vàng ròng của tinh thần cần cù, tâm huyết, của cái tâm thật sự trong sáng. Những tìm tòi của chúng tôi cũng chỉ mới là bước đầu.
Tổ quốc Việt Nam, Dân tộc Việt Nam tự hào có Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Nhân loại tự hào có một Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh. Nghiên cứu về Người luôn là một chân trời phía trước!
Cùng với các đại thụ văn hóa Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh sẽ trở thành cổ mẫu chứa trong đó sự trẻ trung sinh lực văn hóa, khỏe khoắn, tươi mới tinh thần lạc quan, khát vọng sống, mạnh mẽ ý chí, phơi phới niềm tin. Sẽ sản sinh và nuôi dưỡng biết bao những mẫu con sau này. Lịch sử cứ tiếp tục đi lên không ngừng nghỉ. Miền thượng nguồn tràn trề năng lượng, tất yếu vùng hạ lưu sẽ dồi dào sức sống!
II. Hồ Chí Minh – Hiện tượng liên văn hóa tiêu biểu, đặc sắc, độc đáo.
1. Tiểu sử và thời cuộc “liên văn hóa”.
Lên 5 tuổi Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế. Sau này, Nguyễn Tất Thành vào dạy học ở Phan Thiết, vào thăm cha ở Bình Khê, đến Sài Gòn... Năm lên bảy tuổi cậu bé Côn đã học thông sách Luận ngữ, rồi sớm học tiếng Pháp. Như vậy Nguyễn Tất Thành đã được tiếp xúc với nhiều vùng/nền văn hóa khác, tinh thần “liên văn hóa” đã có từ rất sớm ở Danh nhân văn hóa thế giới này. Ngày 5/6/1911 một người con ưu tú của dân tộc lấy tên Văn Ba rời cảng Nhà Rồng lên con tàu Đô đốc Latouche – Tréville bắt đầu cuộc hành trình 30 năm. Người thanh niên ấy sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo số liệu mới nhất, đã đi 54 nước, làm 12 nghề khác nhau, thông thạo ít nhất 12 ngoại ngữ[2].
Dưới góc nhìn “liên văn hóa” hiện đại, thế giới hôm nay nhìn thấy ở Nguyễn Ái Quốc là sự hội tụ tuyệt đẹp ba luồng văn hóa: văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ, đặc biệt là ở các nước Pháp (châu Âu) và Mỹ (châu Mỹ - Latinh); văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Mục đích đi tìm đường cứu nước: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập...”
Để hiện thực hóa lý tưởng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, trong khoảng thời gian từ 1917 đến 1940, Nguyễn Ái Quốc đồng thời tiến hành ba cuộc đối thoại với chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến; với đồng bào An nam và nhân dân các nước thuộc địa; với các đồng chí của mình. Mục đích, nội dung các cuộc đối thoại cũng rất rõ ràng, chính nghĩa, công lý, nhân tính,... nói chung là vì con người. Lên án, tố cáo, vạch trần tội ác để dừng lại, trước hết là giảm thiểu tính chất của tội ác. Thức tỉnh nô lệ để kêu gọi con người ý thức được nhân tính để đòi trả lại nhân tính. Muốn vậy trước hết phải đòi chủ nghĩa thực dân đế quốc trả lại môi trường có nhân tính. Chia sẻ, động viên, kêu gọi (đồng chí), xét đến cùng là nhận chân kẻ thù chung và cùng nhau giải phóng con người.
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đáp ứng đầy đủ nhất các yếu tố cơ sở của đối thoại văn hóa để Người trở thành con người của đối thoại văn hóa. Chính Người đã khiêm tốn khẳng định: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”[3]. Cuộc đời hoạt động và trước tác của Bác đã chứng minh Bác học tập, kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng của các bậc thầy vào điều kiện hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. “Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”. Đó chính là một biểu hiện của một hiện tượng “liên văn hóa” sinh động nhất, sâu sắc nhất.
Tòa lâu đài nhân cách Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có cái nền móng vững chãi là tình yêu thương, cái khung kết cấu là trí tuệ. Nhờ có nhiều những ô cửa sổ ngoại ngữ nên đón được nhiều luồng gió nhân văn từ khắp chân trời văn hóa nên lâu đài ấy luôn lộng gió thời đại, chan hòa hương thơm và ánh sáng tinh hoa của cả nhân loại. Nhờ vậy Người đã đáp ứng đầy đủ nhất các yếu tố cơ sở để trở thành con người của đối thoại văn hóa. Không ngẫu nhiên ngay sau ngày Nước Việt Nam mới ra đời Bác Hồ kiêm nhiệm và hoàn thành cực kỳ tốt đẹp vai trò Bộ trưởng Ngoại giao. Người đã trở thành hiện thân cũng là hình mẫu của ngoại giao văn hóa. Thế giới hôm nay đồng thanh khẳng định Hồ Chí Minh đi trước thời đại, là người đặt nền móng cũng là tấm gương của đối thoại văn hóa với quan điểm “làm bạn với tất cả các nước dân chủ” và không “gây thù chuốc oán” với một ai. “Vĩnh viễn không bao giờ xâm lược nước khác” và cũng “vĩnh viễn không để nước khác xâm lược”. Lịch sử Việt Nam và thế giới hiện đại đã chứng minh và khẳng định tư tưởng vàng về đối ngoại của Hồ Chí Minh không chỉ là tài sản văn hóa của dân tộc mà còn là tài sản tinh thần của toàn nhân loại.
3. Vai trò kết nối những nền văn hóa bằng khát vọng giải phóng và tình yêu thương con người.
Sinh thời Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định về Bác Hồ: “Sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”[4]. Chỉ là một cá nhân nhưng suy nghĩ, việc làm của Bác mang tầm thời đại, tầm đất nước, dân tộc. Bác thay mặt những người An Nam bị áp bức đối thoại với chủ nghĩa thực dân để đòi quyền sống cho dân tộc và cho những người bị áp bức trên thế giới. Bác kêu gọi cả nhân loại đau khổ thức tỉnh. Bác kêu gọi cả Quốc tế thứ Ba hành động vì các dân tộc thuộc địa. Cuộc Hội thảo khoa học Quốc tế về Hồ Chí Minh gần đây nhất có tên Hồ Chí Minh và Ấn Độ (Ho Chi Minh and India) ngày 14/5/2022 tại Kolkata[5]. Trước đó tại Mỹ, tháng 10/2019 có Hội thảo Hồ Chí Minh toàn cầu (Global Ho Chi Minh) được tổ chức tại thành phố New York. Các Hội thảo đều khẳng định ở Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp ba luồng văn hóa: văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ và văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Không chỉ là vị anh hùng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người còn mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hoá cao đẹp của Người đang được cả nhân loại đón nhận.
III. Tuyên ngôn Độc lập – Một “liên văn hóa” tiêu biểu, một Trí Việt học “liên văn hóa” tiêu biểu.
Vì là văn bản tuyên bố với quốc dân và thế giới khai sinh ra một chính thể mới nên tự thân Tuyên ngôn Độc lập đã là một văn bản liên văn hóa. Nói “tự thân” là vì đối thoại với “quốc dân” đương nhiên phải dùng giao tiếp nội văn hoá (intracultural communication), cụ thể là có mối liên hệ tất yếu giữa truyền thống lịch sử và hiện đại đương diễn ra. Đối thoại với thế giới, hẳn nhiên phải sử dụng giao tiếp liên văn hóa (Intercultural communication), phải thuyết phục bằng cả liên văn hóa thời gian lịch sử và liên văn hóa không gian đương đại. Nhưng với ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại của cuộc Cách mạng, bằng tài năng lập luận của tác giả, mạch ngầm tính chất liên văn hóa sâu rộng, lớp lang hơn nhiều những câu chữ ngắn gọn chỉ gồm 1.120 âm tiết diễn đạt cực kỳ giản dị, dễ hiểu trong 49 câu văn.
Đây là một văn bản đối thoại liên văn hóa có mục đích cao nhất là thuyết phục mọi người/mọi nền văn hóa công nhận nền “Độc Lập” của Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Người kiến tạo văn bản này thực sự phải ở một tầm cao chinh phục, muốn vậy, theo lý thuyết đối thoại, phải thấu hiểu đạo lý, thấu cảm nhân tâm và thấu tỏ bước đi của thời đại, nói gọn lại, như Bác Hồ sau này dạy là biết cách “ở đời” và “làm người”. Thế nên ta thấy văn bản, về kết cấu, cực kỳ vững chắc của thế chân kiềng: điểm tựa đạo lý; sự thật (thời đại thực tế. Vì lẽ này hai chữ “sự thật” luôn được nhắc lại để nhấn mạnh) và khát vọng về quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc (của con người).
1. Những khác biệt phi lý: về hoàn cảnh, về đạo lý
Yêu cầu nổi bật của liên văn hóa là “cầu đồng tồn dị”, từ những khác biệt để tìm những nét chung. Chỉ là 4 chữ TỰ DO, ĐỘC LẬP nhưng là ước mơ của bất cứ ai, bất cứ dân tộc nào còn trong vòng nô lệ. Không ngẫu nhiên đoạn cuối cùng của bản Tuyên ngôn mang sức mạnh khái quát cao nhất: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Trong 2 câu văn, 51 chữ nhưng 4 chữ này được nhắc lại 3 lần. Riêng cầu đầu được nhấn mạnh 2 lần.
Khác biệt về cái gì?
1.1.Khác biệt giữa Việt Nam và Pháp.
Cái khác lớn nhất là Pháp đến “cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”
Về chính trị, chúng “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”.
Về kinh tế “chúng bóc lột dân ta đến xương tủy...”.
Những chi tiết này không chỉ là kể tội để kết tội mà còn tạo ra một điểm tựa lập luận: sự khác biệt lớn nhất giữa ta và Pháp là khác biệt ĐẠO LÝ. Thực dân Pháp là kẻ đi cướp nước người, áp bức người, bóc lột người, ngu hóa người, giết người. Không hề có 2 chữ DIỆT CHỦNG, nhưng sự chứng minh qua lối liệt kê ấy là một sự kết án gián tiếp: thực dân Pháp là những kẻ diệt chủng!
1.2. Khác biệt ở chính người Pháp.
Thực dân Pháp đi ngược đạo lý thông thường còn ở:
Là kẻ lợi dụng “Lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái...”.
Là kẻ tráo trở tuyên bố “bảo hộ” nhưng “sự thật” là cướp nước và giết người.
Hèn nhát đến tận cùng: “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật”, “hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng”.
Tàn bạo, độc ác, vô đạo như quỷ dữ: “biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa”. “Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Hai chữ “bảo hộ” là dấu nối liên văn hóa rõ nhất. Dưới góc độ tu từ thì đây là phép “nhại”, có thể gọi là “nhại liên văn hóa” để mỉa “Mẫu quốc”, “nước Mẹ”, mà họ tự gọi, tự phong là “Đại Pháp” (nước Mẹ đại Pháp) đến để “bảo hộ”. Hai câu văn ngắn đã lật tẩy bản chất của một thực dân đểu cáng: “Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật”. Đặt thủ pháp nhại này vào “liên văn hóa” với thơ ca Xô-viết Nghệ Tĩnh càng thấy rõ hơn tính chất tội ác và tráo trở của thực dân Pháp: “Miệng bảo hộ mà tay bóc lột”...
1.3. “Đồng bào ta”, “Việt Minh” thì “khoan hồng và nhân đạo”.
Trong khi đó, “đối với người Pháp” thì chúng ta cao thượng vô cùng, nhân đạo vô cùng: “đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo”. Chú ý cách dùng từ rất mực tinh tế, nếu thay ba chữ “đồng bào ta” bằng hai chữ “Việt Minh” (Việt Minh vẫn giữ một thái độ...) thì ý nghĩa giữ nguyên, thậm chí chính xác hơn nhưng cái ý ngầm sâu sắc hơn nhiều là đề cao sức mạnh quần chúng, đề cao tinh thần nhân nghĩa (đồng bào), cái ý nghĩa quan trọng nhất là hướng mọi người về sự đoàn kết sẽ không có. Xét ở kết cấu lập luận thì câu này mang tính khái quát chung, là luận điểm chung nên dùng “đồng bào ta”, một khái niệm rộng, không cụ thể là đích đáng.
Khoan hồng và nhân đạo ở chỗ nào:
“Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy...
“lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam...”
“và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.
Câu này gồm ba mệnh đề triển khai (mà chúng tôi ngắt dòng) nên dùng từ “Việt Minh” cụ thể là phù hợp. Giả sử thay “Đồng bào đã giúp...” thì lập luận khập khiễng!
Tóm lại: Sự khác biệt ta và Pháp không thể dung hòa, Pháp là quỷ dữ đi ngược lại khát vọng nhân bản của loài người là tự do, độc lập; ta là con người chân chính.
Đó là “sự thật” ai cũng biết. Nhưng còn “sự thật” nữa phải nói rõ hơn cho thế giới biết, cho chính người Pháp biết:
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Xét từ cấu trúc liên văn hóa theo chiều dọc thời gian thì hai câu này hướng về tương lai để khẳng định: người Pháp không còn một tý chút gì quyền lợi, danh dự ở mảnh đất này nữa. Các người ác thế, dã man thế, vô nhân thế, hèn hạ thế. Các người “bán đứng” chúng tôi cho Nhật, chúng tôi “lấy lại nước từ tay Nhật”. Lập luận mạnh mẽ, dứt khoát như chặt đứt cây cầu giao lưu với Pháp. Vì thế Pháp đừng có ý định quay trở lại...!!!
2. Kết tinh tinh thần yêu nước, tự chủ và âm hưởng hùng tráng từ lịch sử.
Điểm tựa lập luận trong Nam quốc sơn hà là “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, xét đến cùng là đạo lý trong quan hệ giữa các quốc gia, dù bé dù lớn. Đây là văn bản cô đọng, hàm súc nhất nêu một “định nghĩa” sớm nhất về một quốc gia gồm tên nước (Nam quốc/nước Nam); cương vực (sơn hà); con người (đế cư - “đế” có nghĩa là vua của mọi vua nhưng đi cùng chữ “cư” có nghĩa là ở, là sống nên có thể hiểu rộng ra là có “đế” đi liền với có dân để chăm nuôi, chăn dắt – theo quan niệm cổ xưa); và “thiên thư” (sách trời). Sách trời ở đây vừa là đạo lý, cũng là chân lý. Kẻ nào đi ngược lại đạo lý sẽ “bị đánh tơi bời”.
Cảm hứng đạo lý và ý thức tự chủ về nền độc lập từ Nam quốc sơn hà được Nguyễn Trãi kế thừa, cụ thể hóa và phát triển thành tư tưởng nhân nghĩa: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điều phạt trước lo trừ bạo” và tư tưởng độc lập dân tộc: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...”. Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu, phát triển và nâng cao thành tư tưởng tỏa sáng ở thời đại mới, dựa trên đạo lý cả thế giới thừa nhận. Văn bản mở rộng ý nghĩa hơn nhiều, không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc nói chung.
Về hình thức cũng thấy rõ Tuyên ngôn Độc lập cùng một âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ, hào sảng và cảm hứng dân tộc đậm đà, sâu sắc. Thấy rõ cả sự ảnh hưởng ở vỏ cấu trúc câu chữ. Trong Cáo bình Ngô có câu: “Như ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang” (Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu) thì “ngã Đại Việt” trong Tuyên ngôn là “nước ta”, là “nước Việt Nam”; “thực vi” (thực/thật là) trong Tuyên ngôn chính là hai chữ “Sự thật”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc cho dân, là: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” hay “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” nên với kẻ xâm lược bạo tàn từng “nướng dân đen” từng “vùi con đỏ” nhưng “Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh/...Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”. Những ánh sáng ấy như chiếu thêm vào để Tuyên ngôn thêm bừng sáng hơn.
3. Liên văn hóa thời gian lịch sử – kết tinh ánh sáng tư tưởng về quyền được sống, quyền tự do, hạnh phúc.
3.1.Ánh sáng của chủ nghĩa Tam dân.
Bác Hồ từng khẳng định: “Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Chủ nghĩa Tam dân bao gồm chủ nghĩa dân tộc (dân tộc độc lập), chủ nghĩa dân quyền (dân quyền tự do) và chủ nghĩa dân sinh (dân sinh hạnh phúc). Người cha đẻ của Chủ nghĩa Tam dân, trong bài giảng mở đầu đã nói “Định nghĩa theo cách đơn giản nhất, Chủ nghĩa Tam dân là chủ nghĩa cứu nước”. Cụ thể hơn, khi bàn về “dân sinh”, ông nói “dân sinh là đời sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của quần chúng”. “Dân quyền”, là “thực hiện các quyền của dân và của chính phủ” với 4 quyền (tuyển cử, bãi miễn, sáng chế, phúc quyết”...Mục đích của Chủ nghĩa Tam dân là “đưa Trung Quốc tới một địa vị quốc tế bình đẳng, địa vị chính trị bình đẳng, địa vị kinh tế bình đẳng, làm cho Trung Quốc mãi mãi tồn tại trên thế giới” [6]. Như vậy Chủ nghĩa Tam dân có những hạt nhân rất tích cực và đi vào Tuyên ngôn Độc lập như là sự đương nhiên, tự nhiên vì chung mục đích “cứu nước”, đòi độc lập cho nước, hạnh phúc cho dân đưa Việt Nam “bình đẳng” với các nước lớn!
Trong cấu trúc thường thấy của một Tuyên ngôn thì không thiếu phần lịch sử truyền thống. Như trong Cáo bình Ngô, quan trọng đến mức được đặt ngay phần mở đầu: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương...”. Nhưng tại sao trong Tuyên ngôn Độc lập, Bác không đưa vào? Trong khi đó trong Lịch sử nước ta (xuất bản tháng 2/1942) thì được chính Bác nhấn mạnh: “Nước Tàu cậy thế đông người/ Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam”; “Dân ta nào có chịu hèn/ Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu”; “Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu/ Bao nhiêu của cải trân châu/ Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn”...Vấn đề này nên được soi sáng dưới “liên văn hóa không gian đương đại”. Tình hình chính trị nước ta lúc bấy thật sự “ngàn cân treo sợi tóc”, phía Bắc “Hoa quân” chuẩn bị “nhập Việt”, phía Nam quân Anh đang ngấp nghé...Hơn nữa Quốc dân đảng thân Tàu (đúng ra là “con đẻ”) còn mạnh. Và như trình bày ở trên chủ nghĩa Tam dân đang như luồng ánh sáng...Do vậy nếu nhắc lại lịch sử giữ nước mấy nghìn năm (hầu như chỉ chống giặc Tàu) thì, về đối nội không chỉ làm mất đi sức đoàn kết nội bộ cần thiết, không tranh thủ được hầu hết các nguồn lực; về đối ngoại, sẽ gây sự tự ái với “Hoa quân” sắp vào...Quả là phải một tầm nhìn thiên tài mới có thể kiến tạo được văn bản Tuyên ngôn Độc lập như đã có!
3.2.Điểm tựa công lý từ Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ.
Mở đầu Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ do Thô-mát Giép-phơ-xơn (Thomas Jefferson) soạn thảo và công bố ngày 04/7/1776, rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Chúng tôi xin mượn lời tác giả Archimmedes L.A.Patti - cựu sĩ quan OSS của Mỹ được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đến tham khảo ý kiến về bản Tuyên ngôn trước khi đưa ra công bố: “Bản tài liệu đánh máy bằng tiếng Việt Nam, có nhiều chữ bị xóa đi và được viết đè lên bằng bút mực, với nhiều ghi chú bên lề…Ông Hồ cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch và tôi chăm chú nghe. Trong mấy câu đầu, người phiên dịch đã nói lên một số danh từ rất đỗi quen thuộc và giống lạ lùng như bản Tuyên ngôn của chúng ta (tức nước Mỹ). Câu tiếp sau là lời tuyên bố bất hủ đã được nêu trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Hoa kỳ năm 1776... Tôi chặn người phiên dịch lại và kinh ngạc quay sang hỏi ông Hồ có thực ông có ý định sử dụng câu đó trong bản Tuyên ngôn của ông không…Ông Hồ ngồi dựa vào ghế, hai tay úp vào nhau, ngón tay sát vào một cách nhẹ nhàng và đang như suy tưởng. Với một nụ cười nhã nhặn, ông hỏi lại tôi một cách nhẹ nhàng: “Tôi không thể dùng được câu ấy à”? Tôi cảm thấy ngượng ngập và lúng túng: “Tất nhiên !... Tại sao không?”. Bình tĩnh lại, tôi nói người phiên dịch đọc lại đoạn đó từ đầu một lần nữa. Anh ta đọc: Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng…, họ đã được tạo hóa trao cho những quyền không thể nhượng lại được, trong đó có quyền tự do, quyền sống và quyền được hạnh phúc”. Cố nhớ lại, tôi mới thấy các danh từ đã được chuyển vị và nhận xét là trật tự các chữ “tự do” và “quyền sống” đã bị thay đổi. Ông Hồ nắm ngay lấy và nói: “Đúng, không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do…” [7].
Lời nói của một người từ nền văn hóa Mỹ cho thấy một cách cụ thể Bác Hồ tiếp nhận, kế thừa cái hạt nhân tinh hoa của bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ.
3.3. Ngọn lửa nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp.
Tuyên ngôn Độc lập trích một câu từ Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng năm 1791 của cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Các chữ được nhấn mạnh chính là linh hồn của bản Tuyên ngôn này: tự do, bình đẳng, quyền lợi. Như vậy điểm tựa đạo lý đã trở thành vũ khí pháp lý: nước Mỹ và nước Pháp đã đặt vấn đề và mở ra kỷ nguyên mới cho loài người: quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng của con người. Từ bình diện con người ở hai bản Tuyên ngôn, Bác Hồ nâng lên ở bình diện mới: quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng của các dân tộc!
Hàm ý bật ra từ “liên văn hóa” Mỹ - Pháp - Việt Nam: chúng tôi làm đúng theo tuyên ngôn của các người. Các người hãy công nhận, chấp nhận chúng tôi. Xa hơn là: các người đã tuyên bố thế thì hãy làm theo tuyên bố của mình!
4. Liên văn hóa không gian đương đại - Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn.
Để ràng buộc cả thế giới vào sự công nhận Việt Nam độc lập là một “liên văn hóa” theo chiều rộng không gian: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Nếu ở trên là sự ràng buộc với Mỹ, Pháp thì đến đây là ràng buộc với Đồng Minh. Hội nghị Tê-hê-răng ở Iran là hội nghị cấp cao họp từ ngày 23/11 đến 01/12/1943 với sự có mặt của nhà lãnh đạo Liên Xô Rô-xép Sta-lin (Joseph Stalin), Tổng thống Mỹ F. Ru-dơ-ven (F. Roosevelt) và Thủ tướng Anh W. Trơ-din (W. Churchill). Hội nghị đã củng cố khối đoàn kết của các nước Đồng minh trong đấu tranh chống phát-xít. Cũng tại đây, tại thời điểm này, Liên Xô đã tuyên bố tham gia chống quân phiệt Nhật sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Hội nghị Cựu Kim Sơn ở Mỹ (San Francisco) họp từ ngày 25/4 đến 26/6/1945, gồm đại biểu của 50 nước, đã thông qua bản Hiến chương Liên hợp quốc. Hiến chương nêu bật mục đích của Liên hợp quốc là giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, giải quyết các vấn đề tranh chấp và xung đột bằng biện pháp hòa bình, củng cố, giữ gìn, phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng các quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc, tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực. Hiến chương Liên hợp quốc là cơ sở chính trị, pháp lý rất cơ bản và quan trọng, là một điểm tựa cho sự bảo đảm chủ quyền đối với các quốc gia, dân tộc mới giành độc lập. Nó có ý nghĩa sâu sắc, mang tính phổ quát rộng rãi cho mọi dân tộc, mọi cộng đồng.
Hiểu chủ đề cơ bản của hai hội nghị này càng thấy sự ràng buộc các nước lớn (Hội nghị Têhêrăng), ràng buộc cả thế giới (Hội nghị Cựu Kim Sơn) phải công nhận nền độc lập của Việt Nam như là một sự đương nhiên vậy!
5.Ngọn lửa bùng cháy và tỏa sáng dưới thấu kính văn hóa.
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã dựa trên cơ sở chính trị và pháp lý vững chắc của nhiều nguồn “liên văn hóa”. Như ngọn lửa được đặt dưới sự hội tụ của thấu kính văn hóa khổng lồ nên ngọn lửa ấy càng bùng cháy vô cùng mạnh mẽ, Tuyên ngôn khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam được đòi lại từ cuộc đấu tranh lâu dài chống thực dân, phát-xít và được bảo đảm bởi những cam kết quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Đây là cấu trúc nhân – quả vững vàng nhất (Một dân tộc đã gan góc...) để khẳng định một chân lý chắc chắn như bàn thạch (Dân tộc đó phải được độc lập).
Lời Tuyên ngôn mạnh mẽ, chắc chắn, dứt khoát là lời chung của cả một dân tộc, của lịch sử, của chân lý chính nghĩa: “Vì những lẽ trên, chúng tôi - Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Nhờ hội tụ các liên văn hóa nên về mặt cấu trúc tổng thể chúng ta cũng thấy sự chặt chẽ mang tính thuyết phục lớn: Từ điểm tựa đạo lý (về nhân quyền, dân quyền, về lẽ phải bảo vệ giang sơn đất nước). Cái lõi của điểm tựa đạo lý này chính là chữ “quyền” được tác giả điệp lại nhiều lần (13 lần) để nhấn mạnh ở phần mở đầu khi trích hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền...quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...”. Đến sự thật chân lý (Pháp lợi dụng lá cờ tự do đến cướp nước ta...Tác giả như chôn đứng kẻ thù trong một chữ “chúng” được nhấn mạnh (tới 15 lần) trong những câu văn ngắn xuống dòng nhiều lần để liệt kê kể tội: “Chúng lập ra nhà tù... Chúng thẳng tay chém giết...Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa...”. Rồi Pháp bán đứng, Pháp đầu hàng...). Để nêu bật một công lý (ta có quyền hưởng tự do, độc lập và quyết giữ vững tự do độc lập. Các chữ ta, nước ta, dân ta, đồng bào ta, công nhân ta được nhấn mạnh như là một “đối trọng” một trời một vực với “chúng” tức Pháp) cần được thừa nhận, khẳng định.
Điểm tựa đạo lý là chữ “quyền” được nhắc đi nhắc lại ở phần trích hai bản Tuyên ngôn, thì ở phần cuối khẳng định, ý tứ cũng dồn về một chữ “quyền” này: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Như vậy Hồ Chí Minh là người tô đậm thêm chữ “quyền” trong lịch sử văn hóa nhân loại để mở ra trang mới cho các dân tộc thuộc địa là đòi quyền (tự do độc lập) và quyết giữ cái quyền ấy. Đến lượt Tuyên ngôn Độc lập của Bác Hồ lại tỏa ánh sáng “liên văn hóa” đến các vùng văn hóa khác!
Đến đây ta thấy Bác Hồ đặt tên bản Tuyên ngôn nước Việt Nam giống như bản Tuyên ngôn của nước Mỹ là hoàn toàn có chủ ý: Cảm ơn nhân dân Mỹ đã khởi đầu, đã làm tấm gương cho các dân tộc trên thế giới đòi quyền Độc Lập - quyền thiêng liêng nhất của mỗi con người, mỗi dân tộc. Đến lượt nhiều dân tộc khác sẽ học tập chúng tôi để có những “Tuyên ngôn Độc lập” của riêng họ!
Học tập lẫn nhau cái tốt đẹp để các bên cùng giàu có hơn, bản sắc hơn, hạnh phúc hơn, phát triển hơn. Đó là bản chất của liên văn hóa!
N.T.T
[1] E.T. Hall. The silent language, New York: Doubleday, 1959
[2] TS Josephine Stenson, Giáo sư sử học trường đại học Florida Atlantic, Hoa Kỳ, người đã dành phần lớn thời gian trong cuộc đời nghiên cứu tìm hiểu về Hồ Chí Minh cho biết Bác Hồ thành thạo 12 ngôn ngữ. Xin xem Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn của thời đại. Hồn Việt, số 156, tháng 3/2021.
[3] Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, NXB Khoa học xã hội, H.1996, tr. 152.
[4] Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia- Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.21.
[5] Ủy ban Đoàn kết Ấn Độ - Việt Nam phát trực tiếp trên kênh Youtube 10h sáng Ấn Độ, 11h30 giờ Việt Nam ngày 14/5/2022.
[6] Tác phẩm Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Nguyễn Như Diệm , Nguyễn Tu Tri dịch), Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr 49, tr 317.
[7] L.A Patti, Why Vietnam, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng 2007, tr 381-382.
VNQD