. PGS.TS Nguyễn Thanh Tú
Không chỉ nay mới có ý kiến này mà trước đây khi phân tích thơ văn cổ nhiều người sa vào trạng thái cực đoan cho những tác phẩm dùng điển cố văn học là sùng ngoại, sùng cổ. Ví như nhận xét “Hịch tướng sĩ” có hạn chế là lấy quá nhiều tấm gương lịch sử Trung Quốc. Ngày nay triết học văn hóa quan niệm gần như ngược lại, tác phẩm ví như cây xanh cường tráng mạnh mẽ là nhờ cắm sâu vào mảnh đất văn hóa dân tộc và nhân loại mà điển cổ chỉ là một nhánh rễ. Xin chứng minh qua một vài tác phẩm thế kỷ XV, thời kỳ hưng thịnh của văn hóa quá khứ.
Thơ Nguyễn Trãi mang tầm nhân loại và dày đặc điển cố. Trong một bài thơ chữ Hán, có hai câu đậm tính triết lý: “Muốn học chim phượng thấy sáng hót đón mặt trời/ Cuối cùng phải làm chim hồng tránh tên để lánh hại”. Bài thơ này làm trong thời kỳ Ức Trai đang làm quan nhưng chán nản muốn xin về nghỉ. Câu đầu lấy điển tích Lý Thiện Cẩm, quan Ngự sử đời Đường dâng sớ can vua không xây cung điện xa hoa, được người đời khen là “minh dương phượng” (chim phượng thấy sáng hót đón mặt trời). Câu sau dựa vào tích “xa tung” vì sợ tên bắn mà chim hồng phải bay cao lên. Đó là cách mỉa kín đáo: triều đình bây giờ đầy tên nhọn, nên (ta) như chim hồng lánh nạn. Mỹ học châm biếm nho gia thâm trầm, kín đáo, chua chát, cay đắng, sâu sắc mà Nguyễn Trãi là đại diện rất tiêu biểu.
Nguyễn Trãi có lúc buông xuôi. Ông chua chát buồn mà giễu đời, giễu mình dù có tài năng, có vì dân, vì nước mà lo nghĩ thì rồi cũng chỉ như loài chồn chung một gò (trong Mạn hứng II). Bài này có câu: “Mắt hoa hươu lá ngờ mơ thấy” là vận dụng điển tích“mắt hoa” (ảo nhãn) và “hươu lộc” lấy từ sách Liệt tử kể người nước Trịnh kiếm củi bắt được con hươu lộc chết bèn giấu đi lấy lá chuối đậy lại rồi quên mất chỗ giấu lại cứ tưởng mình chiêm bao. Câu “Cốc Tang thọ yểu đừng bàn nữa” được lấy từ sách Trang Tử kể hai người chăn dê cùng bị mất dê, trong khi Tang mải miết tìm dê mà vẫn đọc sách thì Cốc cứ chơi bài. Cuối cùng cả hai đều chết. Ý nói kẻ chăm người lười rồi cũng đều như nhau cả...
Sự đời thật nhiễu nhương nên Ức Trai quyết “Đem công danh đổi lấy cần câu” (Ngôn chí 8). “Công danh” thì nặng, “cần câu” thì nhẹ, thế mà quyết đổi vì ông quá hiểu sự thế, tình người đen bạc, đổi để mà yên thân. “Phú quý bao nhiêu người thế gian/ Mơ mơ bằng thuở giấc Hòe-an/ Danh thơm một áng mây nổi…” (Thuật hứng 18). Điển tích “giấc Hòe-an” có ở sách Nam Kha ký (đời Đường) kể câu chuyện Thuần Vu Phần uống rượu dưới gốc hòe ngủ quên mơ thấy đến nước Hòe-an được lấy công chúa và làm thái thú quận Nam Kha. Tỉnh dậy nhìn thấy bầy kiến dàn quân giống như trong mơ. Nguyễn Trãi lấy tích này để nói: phú quý cũng như giấc mộng mà thôi. Câu tiếp theo nói rõ hơn ý này: danh thơm cũng chỉ như áng mây nổi. Ở bài khác ông nhắc lại qua một hình tượng khác: “Phú quý treo sương ngọn cỏ/ Công danh gửi kiến cành hòe/ Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc/ Ngày tháng tiêu ma một bát chè” (Tự thán 3). Công danh phú quý đều mong manh, phong lưu cũng chẳng có gì đáng giá, thời gian thì trôi nhanh. Chúng ta dễ thấy một chủ thể với tâm trạng chua chát ẩn trong tiếng cười chua chát. Con người thi sỹ Nguyễn Trãi rất nhạy cảm với chất bi hài kịch của cuộc đời. Cũng có lúc ông tiếc nuối: “Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc/ Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn” (Tự thán 17). Mượn tích Phạm Trọng Yêm đời Tống khi trọ học ở chùa ra vườn đào được cái chĩnh vàng bèn lấp đi vì sợ mang tiếng tham. Thì ra không phải Nguyễn Trãi tham danh lợi mà tiếc không đủ danh để giúp dân giúp đời nhiều hơn! Muốn giúp được người cũng phải có uy danh, uy tín, thế lực. Thời nào cũng thế!
Ngày nay, nhiều nước có khoa “Việt Nam học” người ta học nhiều nhất là Hồ Chí Minh sau là Nguyễn Trãi, trong đó họ coi “điển cố” như cái chìa khóa để mở thông ra những thế giới văn hóa khác. Vì vậy nghiên cứu về Nguyễn Trãi không chỉ hiểu Nguyễn Trãi mà còn hiểu thêm nhiều những điểm sáng mang tính kết tinh của văn hóa. Điển cố làm thơ Nguyễn Trãi sâu sắc, hàm súc, đa nghĩa hơn.
Tác giả Lê Thúc Hiển có bài phú “Đề miều bốn người nổi tiếng” dựa vào tích đời Hán có bốn người tài không chịu làm quan, mãi sau nhờ Trương Lương thuyết phục họ ra sức giúp đời: “Đất Tần có hang hố sâu khiến chim hồng phải lìa xa/ Sân Hán đắm chìm nhiều làm chim phượng phải bay cao/ Nếu sớm biết sự đời là lợn/ Bất vị Lưu hầu mà bứt một sợi lông”. “Hang hố sâu” gợi tích Tần Thuỷ Hoàng đốt sách chôn nho. “Sân Hán đắm chìm” chỉ việc Hán Cao tổ thống nhất thiên hạ nhưng mê đắm sắc dục nên để lại hậu hoạ ngập trời. “Sự đời là lợn” chỉ việc Lữ Thái hậu, vợ (chính) Hán Cao tổ trả thù Thích cơ phu nhân (được Hán Cao tổ yêu) bằng cách chặt chân tay, bắt uống thuốc câm, cho ở trong chuồng lợn. Câu cuối là tích “bạt nhất mao” (mất một sợi lông chân) kể Dương Chu (thời Tiền Hán) theo phái vị kỷ làm quan “cha mẹ dân” nhưng không muốn mất một sợi lông chân vì thiên hạ. Đặt trong kết cấu bài phú, nếu không có các tích này thì sự kể ra bốn vị anh hào kia sẽ rất nhạt vì không có “nền”!
Nước Sở thời nhà Chu có Biện Hoà bắt được viên ngọc quý liền dâng lên vua Lệ Vương, vua cho là ngọc giả bèn chặt chân trái. Lại đợi dâng vua Vũ Vương liền bị chặt chân phải. Phải đến lần ba dâng tới vua Văn Vương mới được coi là ngọc thật. Dựa vào tích này tác giả Nguyễn Phu Tiên trong bài “Phú ngọc lành đợi giá” mỉa mai những kẻ xu nịnh sẵn sàng hy sinh cả thân thể mình cho “vua”. Còn là cái ý ngọc quý phải vào tay người biết dùng, nếu không có thể chết người. Lại có điển tích Tương Như nước Triệu đem ngọc quý sang Tần đổi lấy thành trì, thấy Tần tráo trở liền tìm cách đem ngọc về. Ý nghĩa cả hai tích mang tính giáo huấn: niềm tin còn quý giá hơn cả vàng ngọc!
Khác với nhiều nhà thơ còn tư tưởng hoài tiếc nhà Trần không chịu hưởng ứng chiếu Kêu gọi hiền tài của Lê Thái tổ, Nguyễn Thiên Túnglàm “Phú gà gáy sáng” để “thuyết phục”. Có câu: “Tiếng kêu Tử Giao/ Tiếng cười trung nghĩa/ Giọng hót Triệu Cao/ Giọng người xu mỵ/ Hiền ác rủ rê/ Hoặc cười hoặc bỉ/ Thói đời đen bạc, há đáng bĩu môi/ Cơ hội nghìn năm/ Gặp đời thịnh trị”. Thời Tống có Tử Giao là người “trung nghĩa”, còn Triệu Cao nổi tiếng nịnh hót. Thừa tướng Cửu Trụ đi chơi nói cảnh đẹp thật, chỉ tiếc thiếu tiếng chó sủa, gà gáy. Lát sau có tiếng chó sủa, tiếng gà gáy trong bụi cây. Thì ra đó là tiếng Triệu Cao bắt chước. Chỉ nhờ tích này mới tạo ra sự đồng cảm tác giả - bạn đọc, kích gợi một quan niệm nhân sinh quân tử để nói được cái ý các nhà thơ nên làm thơ (tiếng kêu) như Tử Giao trung nghĩa chứ đừng có “giọng hót” Triệu Cao xu nịnh. Đời này (Lê Lợi) là “đời thịnh trị” nên phải coi đây là “cơ hội nghìn năm” dùng tiếng thơ xây dựng cuộc đời mới.
Không phải bây giờ mà thời nào cũng có nạn hối lộ. Tác giả “Hồng Đức quốc âm thi tập” vạch trần đích đáng nạn này qua một điển tích: “Năm nghìn mặt mạc treo thành dãy/ Diên Thọ oan chi phụ họ Vương/ Lạt phấn há rằng đeo phận bạc/ Phai son vì nỗi kém đồng vàng/ Đường đột Tây Thi là đáng tội/ Kìa ai vẽ rắn sự còn gương” (Diên Thọ vẽ tranh). Diên Thọ họ Mao đời Hán có tài vẽ truyền thần. Có quá nhiều cung nhân nhà vua không biết mặt liền sai Diên Thọ vẽ tranh (năm nghìn mặt) treo thành dãy để biết mà triệu đến hầu. Nhiều cung nhân hối lộ Diên Thọ vẽ đẹp hơn. Riêng “họ Vương”, tức Vương Tường (sau có tên Vương Chiêu Quân được coi là một trong “tứ đại mỹ nhân” nước Trung Hoa cổ) vì đẹp và thẳng thắn không cho tiền liền bị Diên Thọ vẽ xấu đi nên không được gặp vua lần nào. Việc bại lộ Diên Thọ bị xử trảm. Bài thơ khẳng định chân lý về sự thật: “Ngọc gieo xó tối khôn ngăn sáng/ Lan ỉu hang sâu cũng tỏ hương”. Nếu đó đích thực là một giá trị, thì như ngọc trong xó tối vẫn tỏa sáng, (hoa) lan dù bị để ỉu (ỉu xìu) trong hang sẽ vẫn tỏa hương. Còn kẻ nào “vẽ rắn thêm chân” vì mục đích cá nhân mà làm sai bản chất sự vật, cuối cùng cũng bại lộ và phải chịu hậu quả cao nhất.
Bất cứ một nền văn học, một giai đoạn, thậm chí một tác giả lớn cũng đều có một hệ thống thi pháp tức những nguyên tắc kiến tạo nên thế giới nghệ thuật. Nằm trong hệ thống mỹ học “Thuật nhi bất tác” (kể lại mà không sáng tác mới) cổ điển phương Đông nên văn học trung đại Việt Nam vừa tuân theo vừa “lách luật” để tạo ra cuộc vượt thoát ngoạn mục là dùng “điển cổ”.
Những ai có tư tưởng bi quan về văn hóa Việt, xin mách nhỏ đọc lại một vấn đề đã được giới nghiên cứu văn hóa gần như thống nhất.
Bất kỳ người phương Đông nào cũng biết đến hình tròn âm dương, gọi chữ là Thái cực đồ là một vòng tròn, gồm hai nửa đen (âm) đỏ (dương) đối xứng ôm khít lấy nhau. Trong phần này (âm) lại có một chấm tròn đối lập (dương). Đến nay người ta chứng minh Thái cực đồ là sản phẩm khoa học đích thực được nghiên cứu từ sự quan sát thiên văn bằng cách đo bóng nắng mặt trời. Cắm một chiếc cột thẳng trên mặt đất làm tâm điểm rồi đánh dấu tất cả khu vực mà bóng cột quét trong một năm, ta sẽ có một mô hình Thái cực đồ. Nhìn vào mô hình này ai cũng có thể phát biểu về quan hệ âm dương gắn bó mật thiết, chuyển hóa cho nhau trong vòng tròn cuộc sống. Tất cả đều tuân theo chu kỳ vòng tròn, khép kín: âm cực sinh dương, dương cực sinh âm. Thế nên ai có nghèo (âm) cũng tin rằng chẳng “khó ba đời” cả, sẽ có ngày giàu sang (dương)...
Trong văn hóa Việt, hình tròn cũng góp phần làm nên nét bản sắc độc đáo. Không ai quên triết lý truyện “Bánh chưng bánh giầy” nói về quan niệm vũ trụ trời tròn đất vuông, là sự hiếu thảo, hiếu nghĩa, chăm chỉ, cần cù, trong sáng...Không phải là niềm tự tôn dân tộc thái quá mà là vấn đề khoa học: biểu tượng vuông tròn (rất rõ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ có niên đại cách nay khoảng 2.500 – 3000 năm) của người Việt cổ có trước biểu tượng âm dương của Đạo giáo (đầu Công nguyên). Người Việt coi “vuông tròn” là sự hoàn thiện, hạnh phúc: “Mẹ tròn con vuông”; “Trăm năm tính cuộc vuông tròn” (Kiều); hoàn mỹ, vững bền, muôn thuở: “Ba vuông sánh với bảy tròn/ Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu”; “Lạy trời cho đặng vuông tròn/ Trăm năm cho trọn lòng son với chàng”...Có thể lý giải ra đời từ xứ Lạc Việt, qua tiếp biến văn hóa (cả tự nhiên và cưỡng bức) mà mô hình vuông tròn ngược lên phương Bắc rồi được biến cải, thêm thắt thành mô hình âm dương - một biểu tượng hạt nhân của văn hóa châu Á!?
N.T.T
VNQD