Tiếng gọi sâu thẳm từ cội nguồn

Thứ Bảy, 11/10/2025 16:00

(Đọc Luân hồi lá của Đàm Chu Văn,

Nxb Hội Nhà văn, 2024)

            Luân hồi lá là một biên niên sử thi bằng thơ. Từng phiến lá thời gian hóa thân thành kí ức sống động, thấm đẫm máu thịt của lịch sử và nghĩa tình con người. Không chỉ là thơ, mà còn là chứng từ. Không chỉ là cảm xúc, mà còn là minh triết, là đạo lí sống, là tiếng gọi âm vang từ cội nguồn.

            Ngay từ nhan đề thi tập, người đọc đã bước vào một vòng sinh mệnh: chiếc lá vừa rụng xuống, vừa tái sinh; cái chết không là đoạn kết, mà là khởi trình cho một mùa xanh khác. Một vũ trụ luân hồi chuyển động bằng tiết nhịp của hồi quang, lịch sử và những linh hồn bất tử.

            Ở phần đầu - Lá trung quân, các bài thơ như Lời thề bên Bến Tượng, Ngày chị Sáu hi sinh, Chỉ còn một bước chân, Một người bạn Nhật, Biên giới Tây Nam… là những khúc tráng ca về những con người hiến thân cho lí tưởng cao cả. Tiếng thơ trầm mặc và trang trọng. Chất sử thi phát xuất từ ngọn lửa âm ỉ của lòng trung, sự thủy chung son sắt. Có khi, chỉ bằng một hình ảnh nhỏ mà gợi cả bi kịch lịch sử và khí phách dân tộc: Nếu Người không trở về bến sông này nữa/ những người lính đi đánh trận Bạch Đằng năm ấy/ có thể đã hết thảy hi sinh (Lời thề bên Bến Tượng). Trong Mười năm ở lại, không gian Campuchia hiện lên như miền đất kí thác máu xương của những người lính tình nguyện: Tuổi trẻ các anh gửi lại nơi này/ Máu xương các anh gửi lại nơi này.

             Đây không phải thứ thơ kể chuyện theo lối tuyến tính, mà là một “huyền thoại kí ức tập thể”, đan cài cảm hứng sử thi và tự sự trữ tình. Những bài như Áo dài tìm Anh, Lời nguyền ở mũi Cà Mau, Cô giao liên ấy… đều mang tâm thức lịch sử, nhưng là lịch sử cảm bằng nhịp tim, không đóng khung trong giáo trình. Ở đó, thơ trĩu nặng lòng biết ơn và nỗi tiếc nuối. Những nhân vật - như liệt sĩ, cô giao liên hay người thương binh - không chỉ là biểu tượng, mà là “chủ thể sống”: Bốn mươi năm qua anh chỉ nghe bằng kí ức (Về một người thương binh). Lịch sử đôi khi vang vọng bằng âm thanh của im lặng. Và thơ không minh họa lịch sử, mà chưng cất lịch sử thành hình tượng.

            Những bài thơ như Đêm trăng Đà Lạt, Cây thị của bà, Màu áo em… như khoảng thở dịu nhẹ, khơi gợi hàm nghĩa. Hai câu thơ Mồ côi lăn lóc dãi dầu/ cắn răng mà sống, ngẩng đầu mà đi (Cây thị của bà) không chỉ là số phận cô Tấm, mà còn là lời thắp lên, rằng lòng nhân hậu và nghị lực mới là điều dẫn dắt con người đi qua u tối, vô minh.

             Giai điệu gốm mang đậm mĩ học biến hóa: Lửa bao giờ cũng hai mươi tuổi/ cháy hết mình/ nghìn độ nóng luyện tôi/ cho làn men hóa ngọc… Hình tượng ngọn lửa ẩn dụ cho lí tưởng, cho nhiệt huyết, cho sự sống phực lửa từ tàn tro.

             Tập thơ chia làm hai phần Lá trung quânNhư chừng xanh hơn phản ánh hai trạng thái: quá khứ và hiện tại, chiến tranh và đời thường, huỷ diệt và tái sinh. Phần hai với các bài như Ca cao nở dưới tán rừng, Uống rượu cần ở Tà Lài, Đêm nhài hương… mang đậm màu sắc bản địa, là một dạng thơ sinh thái: cái đẹp là một biến thể của nỗi đau.

            Thơ trong tập thơ này đứng ngoài phân định lớn - nhỏ. Mỗi bài là một chiếc lá bình đẳng trong khu rừng kí ức, khiêm nhường mà đầy sức sống. Để rồi tất cả tụ hội vào khúc kết của luân hồi: Thức dậy nào reo xuân/ he hé tươi non luân hồi mắt lá (Luân hồi lá).

             Thi tập phác dựng một hành trình: đi qua chiến tranh, mất mát, đứt gãy lịch sử, để đến với sự xoa dịu, hàn hắn và trở về nguồn cội - với mẹ, với bà, với cây thị, với đất nước trong dáng hình cánh lá.

              Mỗi chiếc lá rơi xuống, lại bắt đầu một mùa mới. Như thơ, từ nước mắt bung bật mầm xanh. Sự sống cứ trì bồi, trong lặng lẽ, nhưng bền bỉ. Như kí ức chưa từng ngủ yên.

              Luân hồi lá cho thấy một cách viết thơ chiến tranh mà không cần viết về chiến tranh; một lối kể kí ức mà không cần cố sức hồi tưởng.

             Đọc tập thơ này, không chỉ thấy quá khứ được gọi tên, được triệu hồi, mà còn thấy tương lai được kiến tạo bằng lòng tri ân và sự lây lan tiếp truyền của những điều tử tế.

                                                                               HOÀNG ĐĂNG KHOA chọn và giới thiệu

 

Hương khói vẫn thơm bay

 

Hương khói vẫn thơm bay trong ngôi đền dân dã

dựng bằng thành kính niềm tin:

Hồ nhiên nhi thiên

Chí vọng thâm ân

Minh hoài hậu đức(1)

niềm tin nguyên sơ

niềm tin rất thực

Hồ Chí Minh vĩ đại Con Người

chí Người cao thẳm

ơn như trời biển

đức Người sáng mãi muôn sau!

 

Giặc điên cuồng bom đạn, cùm gông

không ngăn được lòng dân yêu kính Bác

không khuất được triệu hồn bất khuất

xả thân vì Độc lập – Tự do – Cơm áo – Hòa bình

đất nước vẹn toàn, liền dải xa xanh

hoa thắm mỗi mái nhà hạnh phúc

 

Hồ nhiên nhi thiên

Chí vọng thâm ân

Minh hoài hậu đức

ngôi đền nhỏ đất Đồng Nai tạc niềm tin triệu khối óc, con tim cả nước

cùng những bông súng trắng từ cánh đồng Long Thành, Nhơn Trạch

dâng hương…

 

--------

1. Ngày Bác mất (2/9/1969), trong vùng địch tạm chiếm, để che mắt địch, nhân dân xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã khôn khéo, sáng tạo lập bức hoành phi với ba hàng chữ “Hồ nhiên nhi thiên, Chí vọng thâm âu, Minh hoài hậu đức” trong ngôi đền của làng để bí mật thờ phụng Bác Hồ.

Bên đèo Lũng Lô

Tưởng nhớ họa sĩ Tô Ngọc Vân

 

Người họa sĩ tài danh ngã xuống trong trận bom thù

máu ông đẫm bức tranh chưa kịp vẽ

những bức ký họa còn phác dở

bộ đội, dân công, xe, pháo,…

cùng ông hành quân lên Điện Biên

xuyên rừng xuyên đêm

vực thẳm, đèo cao, đá tai mèo, trơn lầy, muỗi, vắt...

mưa rét xuyên lồng ngực

xối xả đạn bom thù

cả nước dồn chân đi

cái đẹp nôn nao phía trước

những người đẹp từ trong những bức tranh thuở trước

đã cùng đi lên Điện Biên

 

Bảy mươi năm sau, đi qua đèo Lũng Lô

lại nhớ bức tranh ông để lại(1)

tác phẩm cuối cùng của ông góp vào chiến công vĩ đại

tài năng và lòng dũng cảm vươn cao.

--------

1. Bức tranh Bên đèo Lũng Lô là tác phẩm cuối cùng về chiến thắng Điện Biên Phủ của họa sĩ Tô Ngọc Vân để lại trước lúc hi sinh.

Cô giao liên ấy

Gửi T.N

 

Có thể em là cô gái ấy

Cũng có thể cô gái ấy là em

Rừng miền Đông những năm bom đạn

Thoăn thoắt bước chân “con sóc nhỏ” dịu hiền

 

Con sóc nhỏ rời nhà đi kháng chiến

Bài tập ngày mai còn làm dở trên bàn

Áo dài trắng mẹ cất thầm ngăn tủ

Lọn tóc huyền gửi lại những vấn vương

 

Bao thương nhớ nén đáy bồng (1), khoảng vắng…

Những ồn ào đồng đội sẽ che đi

Mười bảy tuổi cuộn sức đầy con gái

Con gái hay kể chuyện rầm rì

 

Khăn rằn ấp cổ cao hơi ấm mẹ

Mẹ may khăn, mẹ lặng lẽ may bồng

Tấm bà ba cũng từ tay mẹ cắt

Nước mắt người thấm mỗi sợi chỉ đan

 

Nước mắt người ấm nóng nhịp tim con

Nhịp tim nguyện đập theo sự sống còn Tổ quốc

Khi đất nước còn đen ngòm bóng giặc

Dòng sông ngăn giới tuyến hai bờ

 

Bom đạn giặc dội vào trang sách tuổi thơ

Nhát tà bạo chém ngang dòng lục bát

Ta sẽ đến nơi nào có giặc

Ta chưa về khi Tổ quốc chưa yên! (2)

 

Có thể cô gái ấy là em

Cũng có thể em là cô gái ấy

Bốn mươi năm - chuyện ngày xưa nhớ lại

Vẫn còn đây bóng dáng các Anh hùng.

--------

1. Một loại túi vải dùng để đựng quân tư trang, thường là do gia đình trang bị cho chiến sĩ Quân giải phóng miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ (giống như ba lô).

2. Lời bài hát Việt Nam trên đường chúng ta đi, lời thơ Xuân Sách, nhạc Huy Du.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)