. HOÀNG NGỌC THANH
Tôi sinh ra ở làng chài nhỏ nép mình bên bờ cát, quanh năm nhấp nhô theo ngọn sóng. Thuở bé, cha dắt tôi đi dọc biển, kể tôi nghe sự tích Gành Son. Đồi đất sét đỏ thẫm ấy là máu của con cù trong trận huyết chiến với rồng. Và ngôi làng nơi gia đình ta chôn nhau cắt rốn là vùng đất rồng trở về.
Tôi thích trèo lên ngọn đồi cao nhất, ngắm nhìn toàn cảnh làng chài. Trước mặt tôi là biển trời xanh ngắt, sau lưng là Gành Son đỏ au. Ráng chiều hắt thêm sắc vàng lấp lánh, tạo nên bảng phối màu tuyệt đẹp. Những chiếc thúng chai rực rỡ nằm phơi mình trên bờ cát trắng tinh, ngơi nghỉ sau đêm dài lênh đênh trên biển.
Mỗi khi màn đêm buông xuống, trời và biển hoà một màu đen thẫm, trai làng hào hứng đẩy thúng ra khơi. Dân làng tôi chỉ đánh bắt gần bờ, giăng lưới theo chiều dài con sóng. Nơi nào sóng càng lớn, khi ập vào bờ càng nhiều cá tôm. Vào mùa biển động, nguy hiểm chực chờ nhưng phong phú sản vật. Lúc này thúng chai giúp ngư dân nương vào các gành đá, bãi rạn khuất gió mà thả lưới.
Thời khắc vui nhất, nhộn nhịp nhất là khi tia nắng đầu ngày nhảy nhót đón chào hàng trăm chiếc thúng chai trở về. Đầy ắp những con cá hố xám trắng, cá liệt trong khe, cá đối lấp lánh vảy bạc, ghẹ tươi xanh giương càng, tôm cong mình lách tách. Mẹ tôi và những cô dì khác tất bật phụ chồng gỡ lưới, tỉ mẩn phân loại thành quả đem ra chợ bán. Các chú các bác rôm rả kể cho nhau nghe chuyến đi hồi đêm. Luôn có chuyện mới mang về từ biển. Tiếng nói cười xen lẫn tiếng quẫy đạp của cá tôm trong lưới. Gió biển chở mùi mồ hôi chưa ráo, mùi hải sản tanh nồng, len lỏi từng ngóc ngách trên cảng nhỏ.
Tôi thích quang cảnh lúc này. Tươi vui nhộn nhịp. Hàng hàng lớp lớp chiếc thúng chai cập bờ. Nhìn từ xa như tổ ong khổng lồ, bồng bềnh trên lớp tơ lụa trong xanh óng ánh. Thúng chai có đường kính chưa đầy hai mét, vậy mà vẫn vững vàng, miệt mài săn lùng hải sản nuôi sống bao người con xứ biển. Thúng chai là phương tiện, cũng là công cụ bảo vệ ngư dân, khi họ giao tính mạng của mình cho biển trong cuộc sinh nhai.
Ngày trước, thúng chai chủ yếu đan từ tre. Thúng tre khi rách đem về vá lại dùng tiếp. Nếu được làm kĩ lưỡng, sử dụng cẩn thận có thể dùng đến mười năm. Đến giờ, đa phần thúng làm bằng vật liệu tổng hợp (composite), gắn máy nổ, di chuyển nhanh hơn, đi xa hơn, đánh bắt được nhiều sản vật có giá trị hơn.
Riêng tôi vẫn hoài niệm về chiếc thúng tre thuở nào. Nó gợi nhớ một làng chài bình yên. Không ồn ào máy nổ, không mùi khói xăng, nước biển trong vắt không bợn cặn dầu. Tôi xem mỗi chiếc thúng chai là một tác phẩm nghệ thuật của người nghệ nhân tài hoa, dồn hết tâm sức của mình vào mới làm ra được.
Tre để làm thúng phải là tre mỡ già từ sáu mươi phần trăm trở lên. Loại tre này chịu nước tốt, độ dẻo cao, không bị giòn gãy khi phơi khô. Tre được vót nan tỉ mỉ, đan mê, lận vành, tiếp tục phơi khô. Tiếp đến trét phân bò lấp đầy từng kẽ nan, cho thúng không bị hở mới trét dầu rái chống thấm. Sau đó đào một hầm dưới đất làm khuôn, đưa mê thúng xuống, bắt đầu lận vòng thúng sao cho tròn đều, cân bằng và thẩm mĩ. Những chiếc thúng chai hoàn chỉnh đem phơi nắng nhiều lần cho tăng độ dẻo dai. Bên trong thúng được cố định thêm các thanh tre cho chắc chắn, để thúng có thể vững chãi, uyển chuyển trôi theo sóng. Người làm thúng thường dùng sơn quét tên mình để tránh nhầm lẫn. Nét chữ nguệch ngoạc trên nền sơn xanh đỏ tím vàng vô tình tạo nên vũ điệu sắc màu cho biển cả.
Hồi bé xíu, cha cho tôi lên thúng cùng ra biển. Tôi lắc lư theo nhịp sóng, tiếng cười hoà vào tiếng hát của đại dương. Tôi học cấp hai, cha dạy tôi cách chèo, làm sao cho thúng không xoay tròn, nhẹ nhàng lướt đi. Cha nói, chèo thúng chai cần khéo léo. Cha dạy tôi quan sát hướng gió. Gió thổi thuận chiều, không mất nhiều sức. Tuy nhiên, nếu gió thổi ngược, cần giữ vững tay chèo, vận nhiều lực tay và chân để điều khiển thúng đi đúng hướng.
Làng tôi chỉ vài trăm nóc nhà, vậy mà cứ đến ngày hội là vô cùng sôi nổi. Dịp sau tết, làng tổ chức đua và biểu diễn thúng chai. Dù không được người ngoài biết đến, nhưng đối với dân làng, đó là ngày vui nhất, sảng khoái nhất. Cờ xí rợp trời, chiêng trống rền vang. Già trẻ bé lớn bồng bế nhau đội nắng cổ vũ. Những ngư dân tay chai mặt nám, cả đời chỉ biết có biển, vào ngày này ăn mặc đẹp đẽ, rũ bỏ những nhọc nhằn của cuộc mưu sinh, chú tâm vào tay chèo sao cho về đích nhanh nhất trong tiếng hò reo của cả làng.
Vui nhất là màn lắc thúng. Ngư dân không dùng bất cứ loại dụng cụ nào như mái chèo hay dầm để bơi mà ở tư thế nửa đứng nửa khom, tay bu chặt vành thúng, vận dụng toàn thân lắc mạnh để đưa thúng lướt đi. Thỉnh thoảng rộ lên những tràng cười vang dội khi bắt gặp tư thế có một không hai của ngư dân đang ra sức lắc thúng về đích. Vòng đua này thường có nhiều ngư dân ngã xuống nước, lóp ngóp bơi vào bờ. Dù thắng hay không, ai cũng tươi cười rạng rỡ.
Cha tôi và bạn bè còn phô diễn kĩ thuật xoay thúng điêu luyện. Chân đạp thúng, tay vung mái chèo, kết hợp nhuần nhuyễn. Thúng xoay tròn nhịp nhàng. Cha như người nghệ sĩ đầy ngẫu hứng, tỏa ra sức mạnh đẹp đẽ. Cha kể, ngày xưa mẹ thích cha từ những lễ hội như vậy. Hai cha con liếc trộm mẹ, cười khanh khách.
Nghề xoay thúng hiện nay được phổ biến rộng khắp, như một tiết mục biểu diễn đậm hương vị biển cho du khách thưởng ngoạn. Thúng chai có thêm việc mới, mang hình ảnh độc đáo của mình đi khắp bốn phương.
Bao năm sống ở thị thành, tôi vẫn nhớ làng chài da diết. Nhớ dải đất đỏ cheo leo bên bờ cát trắng. Nhớ bến cảng nhỏ rộn rã đầu ngày. Nhớ ngư dân đời đời chất phác. Nhớ cả những chiếc thúng chai dập dềnh trên sóng nước…
H.N.T
VNQD