Gió từ dĩ vãng

Thứ Bảy, 15/11/2025 00:49

. HOÀNG NGỌC ĐIỆP
 

Bão xa. Trời nhợt nhạt như thần sắc người mới ốm dậy. Khu vườn ướt nước mưa khẽ rung lên mỗi khi có làn gió lạc đến. Hai người phụ nữ ngồi bên bàn nước, dưới bóng giàn hoa chuông rủ từng chùm vàng mỡ gà. Người lớn tuổi là bà Huệ, giáo viên về hưu, người trẻ là cô Lanh, nhà báo. Cô vừa xong buổi phỏng vấn bà Huệ nhân ngày 20 tháng 11. Bây giờ họ quay sang chuyện phiếm.

Minh hoạ: Nguyễn Văn Minh

“Cô đừng tung hô tôi quá lời. Thực chất tôi vào Nam chỉ để… tìm người yêu thôi.” Bà Huệ nói và mỉm cười, nụ cười khiến bà trẻ ra so với tuổi sáu mươi.

“Rồi cô… có tìm thấy chú không ạ?”

“Không. Vì anh ấy hi sinh từ trước khi tôi vào miền Đông rồi. Anh Du là người khiến tôi có những rung cảm đầu tiên trong đời. Hồi đó tôi mới… tám tuổi…”

“Tám tuổi đã biết yêu ư?” Lanh trố mắt nhìn người phụ nữ luống tuổi, gương mặt còn sót lại đôi ba nét ưa nhìn thời con gái.

“Dĩ nhiên, yêu theo kiểu trẻ con ấy mà…”

Nói đến đây, chợt gương mặt thanh tú của bà Huệ thẫn thờ, ánh mắt xa vắng. Giờ tâm trí bà đang đuổi theo hình bóng một chú bé da ngăm, cằm nhọn, đôi mắt sáng tươi vui hơi quá to so với gương mặt nhỏ. Kè kè bên cậu là một bé gái mặt tròn trắng trẻo, cặp môi đỏ chót và đuôi tóc dài…

*

*         *

Hồi đó, cô bé Huệ sống cùng bố mẹ và hai ông anh nhỉnh hơn mình vài tuổi ở một thị trấn ven biển miền Trung. Nhà cô nằm lọt giữa những ngôi nhà xây thấp tè, mái ngói phủ đầy lá phi lao và cát.

Một ngày, bom Mĩ làm tất cả thành một mớ nháo nhào. Khói. Lửa. Người chết. Nhà cháy. Tan hoang như vừa động đất. Gia đình Huệ và những học sinh trường dạy nghề do cha cô làm hiệu trưởng bị nhồi lên những chiếc xe tải ọp ẹp, cấp tốc hành quân ra Bắc.

Ngôi làng nơi cô sơ tán đến nằm sát đường ray xe lửa. Làng lúp xúp những mái rạ xỉn màu, những mảnh vườn nhỏ rào giậu qua quýt. Trai tráng đều ra trận nên trong làng toàn đàn bà, trẻ con và người già. Gia đình cô ở nhờ nhà ông Đại, một ông già góa vợ, có hai con trai đang đi B. Ông Đại đầu trọc, đen đúa và cũ kĩ như củ sắn để quên trên gác bếp lâu ngày. Ban ngày ông làm ruộng, đêm buôn rượu lậu. Ông lão đựng rượu vào ruột trái bóng đá, giấu dưới vạt áo. Có hôm ông say khướt, ngủ vạ vật dọc đường, tờ mờ sáng mới mò về nhà, lấy túi rượu ra đổ vào những cái chai thủy tinh nút lá chuối cất vào buồng. Quần áo ông găm đầy cỏ may, tóc cũng đầy cỏ, thậm chí một dây khoai lang dính củ còn giắt tòn teng nơi lưng quần.

Rồi mùa hè xô đến. Làng quê như bị nắng nóng nung chảy. Một buổi chiều, Huệ ngồi nặn mấy con gà vịt bằng đất sét, anh Hoan anh Hỉ chơi cờ lá. Bỗng con vện hực lên vẫy đuôi mừng. Nhìn ra ngõ cô thấy cha về, theo sau là người phụ nữ xách chiếc túi du lịch, cậu trai đội mũ rơm, lưng đeo cái đàn mandoline nhỏ, mặt đàn đã cũ sờn. Cha nói, giọng vui vẻ:

“Các con. Đây là cô Mỹ, y tá cơ quan bố, còn đây là Du, con trai cô. Từ nay Du sẽ ở đây với các con, bố và cô Mỹ phải đưa học sinh đi thực tập khoảng hơn một tháng. Bố mong ở nhà mọi chuyện sẽ tốt.”

Mấy anh em lễ phép cúi đầu. Cô Mỹ mặc bà ba vải nilon đen sột soạt, thắt lại ở phần eo lưng, cổ quàng khăn rằn. Cô tươi cười chào bọn trẻ bằng giọng miền Nam lạ tai. Du cũng chào, vẻ hơi khép nép. Trước khi đi cô dặn:

“Mấy con cho Du chơi với nha. Ở nhà với các anh chị đàng hoàng nghen con.”

Cậu bé Du chỉ dạ nho nhỏ.

Ông Đại về. Nghe nói Du từ miền Nam ra, ông hấp háy mắt nhìn cậu:

“Thằng cu này, bố mày đâu?”

“Ba con hi sinh ở mặt trận rồi ạ!” Du từ tốn đáp.

Từ hôm có Du, anh em cô vui hẳn lên. Cậu tham gia tất cả các trò của mấy anh em: như chơi cờ ca rô, cờ cá ngựa, bắn bi, vẽ tranh, nặn đất sét… Thường cơm trưa xong, tất cả leo lên bộ ván mộc kê giữa nhà, nghe Du kể chuyện. Du ham đọc, được má mua cho một kho sách, vì thế mà đông tây kim cổ gì cậu cũng biết. Và bao giờ cậu cũng xếp Huệ nằm ngoài cùng, ngay kế bên mình...

Việc trong xóm xuất hiện một thằng bé miền Nam quả là cơn địa chấn đối với lũ trẻ mũi dãi và bọn choai choai chưa từng ra khỏi lũy tre làng. Mấy thằng nhóc lập tức thập thò ngoài ngõ nhà Huệ.

“Chúng mày cút xéo. Có gì lạ đâu mà lõ mắt ra nhìn thế?” Anh Hoan cáu kỉnh nói và xua lũ choai như xua ruồi.

“Nghe nói nhà mày có thằng mới đến, chúng tao muốn xem nó thế nào.” Thằng Lượm nói và nhăn nhở cười. Nó già tuổi nhất bọn, mắt một mí, ngực nở vồng, vai u, da nâu bóng, hệt một con bê đực đang sức lớn. Chưa kể, thằng Lượm đầu óc ù lì, học ba năm hai lớp nhưng nổi tiếng hung hăng, hay cà khịa và bắt nạt những đứa bé hơn.

Lượm đây là con bà Thị, một người đàn bà góa chồng, nói ra rả suốt ngày như cái máy khâu. Bà từng lượn như chuồn chuồn ngày mưa quanh ông Đại, sau ngày vợ ông mất vì bệnh tràng nhạc. Nhưng ông Đại mê rượu hơn mê đàn bà, đó là lí do bà Thị vẫn phỉ báng ngoa ngoắt rằng ông là con gà trống thiến sót, dở mù dở điếc.

“Nó có cởi truồng đâu mà chúng mày xem? Rõ dơ.” Anh Hoan đứng chống nạnh, dài giọng giễu cợt. Bọn thằng Lượm còn đứng nghiêng ngó một hồi rồi mới tản đi.

Qua tuần sau mưa rào sầm sập. Những mái rạ nặng oằn, sũng nước. Tạnh mưa, cả bọn kéo nhau ra đồng mót khoai, nhặt giá đỗ và hái rau muối. Những cây rau muối lá đỏ tía phủ phấn trắng, bết bát dính cả vào quần áo mặt mũi. Những ruộng khoai lang đã thu hoạch chìm trong làn nước ngàu đục, sủi bọt vì dấu chân người. Mấy anh em dùng chân dũi dưới đất nhão tìm kiếm và mừng rú lên mỗi khi vớ được những củ khoai còn lành lặn. Du rất khoái lăn lê ngoài đồng. Cậu thường đội mũ rơm, tay cầm cây gậy tre như ông cụ non.

Nhìn thế, Huệ chợt nhớ khi khoai lang và cà dừa kìn kìn từ ngoài đồng về đổ đống trên sân hợp tác xã. Buổi chiều người lớn, trẻ con ra sân hóng mát, ai thích món gì tự động lấy món ấy, lau sơ vào vạt áo, bỏ vào miệng nhai rôm rốp. Ba anh em Huệ cũng mỗi đứa nhón một thứ, nhai ngon lành. Anh Hoan bảo Du ăn, nhưng cậu lắc đầu: “Em chưa bao giờ ăn khoai sống hay cà sống. Nhưng dân ở đây hình như ai cũng biết ăn. Kì thiệt đó.” Thật ra thì chẳng có gì kì lạ ở đây cả. Thời chiến, bụng người lớn cũng như trẻ con lúc nào cũng réo òng ọc, nên đụng cái gì ăn được là nhét tuốt tuột chẳng kể sống chín. Và cũng bởi Du là con em miền Nam, cậu được má chăm sóc kĩ nên không khát thèm như bọn trẻ cùng lứa ở đây.

Lúc mót khoai từ ngoài đồng về, mấy anh em lại đụng thằng Lượm. Lốc nhốc sau nó là hàng chục thằng bé lem luốc quần cụt áo vá, đứa nào cũng cố làm ra vẻ bặm trợn.

“Ê. Thằng kia, ai cho mày đến ở làng chúng tao?”

“Tránh ra. Chúng mày đừng chó cậy gần nhà, bắt nạt người ta.” Anh Hoan nói và gạt phắt thằng Lượm sang một bên. Nhưng anh không phải là mục tiêu mà thằng Lượm và lũ trẻ trâu hướng đến. Chúng nhắm vào Du. Cậu bước tới, đầu ngẩng cao:

“Tao đây. Tụi mầy muốn gì?”

“Muốn gì à? Tao ghét những thằng ăn trắng mặc trơn. Mày ở đéo đâu đến đây? Giỏi thì đánh nhau nào…”

Thằng Lượm chưa dứt lời, như mồi lửa xăng phụt cháy, Du lao thẳng vào nó. Huệ cùng lũ trẻ trâu dạt ra. Hai cậu trai quần thảo trên đường làng lát gạch nghiêng, kế bên cái ao đặc bèo tấm. Cả hai thở phì phò như trâu đầm dưới vũng bùn. Có lúc thằng Lượm đã ngồi lên mình Du, nhưng rồi nó lại bị cậu quật xuống. Và cuối cùng, thật không thể tưởng tượng nổi, thằng Lượm lớn hơn, khỏe hơn, hiếu chiến hơn đã bị Du khóa cứng dưới đất. Nó ngoác mồm kêu oai oái, cổ ngỏng lên như rắn hổ cầu cứu đám bạn. Nhưng chẳng ai sốt sắng cứu thằng Lượm. Bỗng Du hét lên một tiếng rợn người. Hóa ra, thằng Lượm trong cơn bí bách đã cắn một phát chí mạng vào tay Du. Cơn giận của cậu bé miền Nam càng bùng lên dữ dội. Du vung tay thụi liên tục vào mặt thằng Lượm và chỉ chịu dừng lại khi ông Đại tình cờ đi tới quát:

“Hai thằng ôn dịch. Chúng mày hết chuyện làm xoay ra đánh nhau hử? Á à thằng Lượm, để tao hỏi con mẹ mày xem nó có dạy được mày không.”

Hai con trâu điên mắt đỏ ngầu buông nhau ra. Thằng Lượm mặt sưng vều bầm tím thừa cơ chồm dậy, cắm cổ chạy. Lũ đồng bọn rùng rùng chạy theo.

Mấy anh em im lặng kéo nhau về nhà. Bắp tay Du sưng tấy in hằn dấu răng nhưng cậu không hé môi. Anh Hoan lóng ngóng lấy thuốc lào rịt vào vết thương rỉ máu của Du.

“Sao mày giỏi thế! Thằng Lượm khỏe như trâu mà còn bị mày cho ăn đất.” - Anh Hỉ hỏi khi cả bọn đã xúm xít quanh rổ khoai lang luộc. Du bình tĩnh trở lại. Cậu thở dài, giọng buồn buồn:

“Giỏi gì đâu. Tại mình có… học võ. Nhưng má mình nói, học võ là để tự vệ, chừng nào bị ăn hiếp mới được đánh lại.”

Ra vậy. Ba anh em nhìn Du thán phục.

Minh hoạ: Nguyễn Văn Minh

Chập tối, bà Thị bước vào sân nhà Huệ, tay xách sợi dây buộc nải chuối tiêu lốm đốm chín. Theo sau bà, thằng Lượm cũng túm một bao tải rách trong có con gì động đậy. Bà Thị nói với mẹ cô đang ngồi trên hè tuốt lá chè xanh hãm nước uống.

“Chào chị. Có tí chuyện em muốn nhờ chị….”

Huệ dỏng tai lên nghe lỏm. Thì ra, ông Đại đã đe bà Thị rằng Du là con liệt sĩ, ba nó đã hi sinh, má nó và nó được ra Bắc theo diện đặc biệt. Thằng Lượm đánh Du là đánh con em miền Nam ruột thịt, như thế là vi phạm chính sách hậu phương quân đội. Khôn hồn thì thằng Lượm phải đến xin lỗi Du, nếu không sẽ to chuyện. Thế là bà Thị sợ quá, vội vàng mang nó đến để cầu hòa.

Thằng Lượm lôi từ cái bao tải rách ra một con ngan giãy đành đạch, kêu kíu kíu. Cho mọi người nhìn xong nó lại đút tỏm con ngan vào bao tải. Mẹ nó để nải chuối lên hè, khẩn khoản nói với mẹ Huệ:

“Có tí quà vườn nhà, mang biếu ông Đại, chị và các cháu. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Cháu Lượm nó trót dại, nhờ chị nói giúp cho nhà em, xin ông, xin cháu Du tha tội. Từ nay nó xin chừa…”

Mẹ Huệ cười:

“Ông Đại không có nhà. Mà làm sao nhiêu khê thế. Chuyện trẻ con, cứ để các cháu tự xử. Con ngan hãy còn non, chị và cháu mang về mà nuôi...”

Thằng Lượm tiếc rẻ:

“Con ngan này nuốt phải đỉa, bị con đỉa cắn cổ chui ra, cứ tưởng chết. Mẹ cháu cho cháu nuôi riêng. Cháu đào giun cho nó ăn mỗi ngày. Nuôi thêm một thời gian nữa thì mũm phải biết.”

Mẹ Huệ nhìn Du:

“Theo bác thì hai đứa nên giảng hòa. Nhà ta nhận nải chuối cho bác Thị vui. Còn con ngan thì để Lượm mang về, được không Du?”

“Được bác ạ!” Du vui vẻ nói. Thằng Lượm cười như nghé. Nó bị mẹ ép lên ép xuống vì vụ hối lộ, ai ngờ lại không bị mất của.

Từ hôm đó, Du hết bị bọn thằng Lượm bắt nạt. Không những thế, lũ choai còn nể Du ra mặt.

*

*           *

Ở nhà Huệ, thi thoảng buồn nhớ má, Du mang mandoline ra bậc cửa ngồi đàn. Cậu hay chơi bài Tiểu đoàn 307 . Giai điệu cất lên ríu rít khiến chỉ một lát sau cậu lại cười toe toét. Anh Hỉ cũng tập tọng nhờ Du dạy. Anh lấy cớ bận học đàn để đùn cho Huệ việc quét nhà rửa bát.

Khi này không hiểu sao hai lòng bàn tay cô bị ghẻ nước, những mụn rộp mưng mủ, trắng ởn như hạt gạo. Mẹ khêu mủ, bôi thuốc, nhưng vì thiếu kháng sinh và tay cô luôn ướt nên mãi không khỏi. Thấy Huệ vừa hì hụi rửa bát vừa khóc thút thít, Du cau mày:

“Huệ. Để đấy anh làm cho. Thằng Hỉ làm biếng thấy ghê luôn.”

Loáng cái, cậu đã rửa sạch chén bát và mang úp vào chạn. Huệ nhìn Du đầy biết ơn.

Tháng bảy, cha Huệ và cô Mỹ hoàn tất chuyến công tác. Hai mẹ con cô Mỹ về lại nhà cũ. Hôm Du đi, lưng đeo cây đàn mandoline, Huệ đứng nhìn qua cửa sổ, cảm thấy muốn khóc nhưng phải cố không để lộ ra ngoài. Luôn mấy buổi chiều cô chạy ra đầu xóm, dõi mắt qua cánh đồng ngàn ngạt lúa đang trổ đòng. Cô muốn gặp Du nhưng lại chùn lòng khi nghĩ đến việc phải đi qua mấy cái lò gạch, chỗ bọn trẻ xóm hay tụ tập chơi đùa, trêu chọc và nhát ma con gái. Nhưng một hôm, cầm lòng không đậu Huệ đánh liều băng qua hai cái lò gạch đang phun khói, qua hai cánh đồng, qua con mương đào, sang nhà Du. Cô Mỹ đi vắng. Du ngồi trên bậu cửa, đang chơi mandoline. Gương mặt nhỏ nhắn ngăm đen của cậu cúi xuống.

Khi thấy Huệ, Du dừng tay đàn hỏi:

“Huệ qua tìm anh có chuyện gì vậy?”

“Em… qua xem anh… thế nào thôi.”

Du đứng lên, vào nhà lấy ra cuốn sách mới:

“Cuốn Dế mèn phiêu lưu ký này má mới mua, anh đọc xong rồi. Em mang về coi đi.”

Hết chuyện để nói, cả hai nhìn nhau ngơ ngẩn. Một lát rồi Huệ cầm cuốn sách lủi thủi đi về.

*

*           *

Cô Mỹ về thủ đô học đại học. Ít năm sau, gia đình Huệ cũng về Hà Nội. Giờ cô đã lớn bổng, ngực nhú chũm cau. Một hôm cô nhận được gói quà từ Du là cuốn sách của nhà văn Nam Bộ Nguyễn Quang Sáng. Nhìn chữ kí tặng rất đẹp, Huệ thấy xốn xang. Tình cảm của tuổi thiếu nữ đã gõ cửa tâm hồn cô nhưng còn rụt rè, mơ hồ. Khi này, chiến tranh vẫn tiếp diễn, những đoàn quân vẫn rầm rập lên đường ra trận. Bỗng sáng đó, đang học bài, Huệ chợt thấy ngoài cửa sổ có bóng ai lấp ló. Cô chạy ra. Một chàng trai với hàng ria mờ mờ trên mép và cặp mắt tươi vui đang bỡ ngỡ nhìn. Là Du. Qua phút ngỡ ngàng, Du nói:

“Em lớn quá. Và… xinh nữa. Anh đến chào gia đình. Anh sắp đi bộ đội.” Giọng Du lạ hẳn, không còn là giọng miền Nam mà là giọng nói du dương của trai Hà Nội.

“Anh đi bộ đội thật sao? Em cứ tưởng… anh không bao giờ phải đi bộ đội.” Huệ nói như người đang mơ ngủ. Gương mặt rám nắng đẹp đẽ, cặp mày đen nhánh và nụ cười tươi sáng của Du mê hoặc cô. Nỗi xúc động khiến tim cô tăng nhịp và lưỡi như cứng lại. Du chợt hướng mắt ra xa, thở dài:

“Đúng là anh thi đại học đủ điểm du học bên Tiệp. Nhưng anh xung phong vào bộ đội. Anh muốn vào Nam chiến đấu. Biết đâu sẽ được gặp anh Hai. Ở ngoài này mợ anh có gia đình mới rồi. Anh đã có thêm đứa em trai. Anh không cần phải lo cho mợ nữa. Chỉ sợ…”

Du im bặt, bối rối. Có lẽ anh thấy bất tiện nếu thể hiện tình cảm yếu mềm của mình. Huệ chợt nhận ra, Du đã chuyển sang gọi má bằng mợ, như những gia đình Hà Nội xưa. Cả hai im lặng nhìn nhau, ngượng ngập. Trước khi về, Du nói nhanh:

“Huệ. Tối nay, anh đợi em ở… Anh muốn gặp em.”

Thành phố vừa lên đèn, Huệ đã chạy bổ ra chỗ hẹn. Đoạn phố này vắng vẻ, các gia đình hầu hết đã đi sơ tán, cửa đóng then cài im lìm. Dưới vòm xà cừ cổ thụ, hai đứa đứng sát vào nhau, gần đến nỗi Huệ nhìn thấy hàng ria mềm mại phơn phớt trên bờ môi Du:

“Anh sẽ nhớ em lắm. Em… chờ anh về chứ? Anh tin chiến thắng gần kề rồi.”

“Vâng. Em cũng tin vậy. Em sẽ chờ anh…”

Cả hai nói rất ít, cảm nhận nhịp tim của nhau gấp gáp. Huệ nhìn Du bằng đôi mắt rưng lệ. Anh bỗng đột ngột hôn lên má, lên môi cô. Bàn tay cô bất giác níu lấy mái tóc dày cứng của anh. Run rẩy vì cảm giác lạ lẫm và ngập tràn hạnh phúc, người cô bềnh bồng như trôi trên mây…

Thêm vài lần hẹn hò nữa thì Du lên đường…

*

*          *

Bà Huệ ngừng lời nhấp một ngụm nước và mời Lanh ăn trái cây. Cô gái cầm lên một miếng táo trong đĩa, cắn nhỏ nhẹ từng miếng. Cô đang bị câu chuyện cuốn hút:

“Rồi chú Du sau đó… Cô chú vẫn liên lạc với nhau chứ ạ?”

Bà Huệ gật đầu thay cho câu trả lời. Câu chuyện lại tiếp tục…

Vào Đông Nam Bộ, Du lên thẳng Bình Phước. Ba anh hi sinh ở Đất Quốc. Anh Hai đã chuyển về Buôn Ma Thuột. Trong thư gửi cho cô, Du bảo anh rất nhớ Hà Nội, nhớ má và… cô. Anh đùa rằng anh đã thích cô từ hồi còn là cô bé học lớp ba răng sún. Cô cầm thư Du trốn vào một xó, đọc đi đọc lại, tim đập rộn ràng. Cô nhớ nụ hôn đầu dưới bóng cây xà cừ khiến cả người như muốn tan chảy. Nhớ hơi thở nóng hổi của Du và vị ngọt ngào ấm mềm của làn môi anh. Bóng dáng thân yêu của Du như vẫn quanh quẩn đâu đây…

Mối tình bí mật khiến Huệ vui buồn bất chợt. Có khi ngồi nấu cơm trong bếp cô hát véo von, làm lửa cháy lan cả ra ngoài. Lại có nhiều lúc cô ngồi buồn thẫn thờ, đầu óc mụ mị, chẳng tập trung được vào việc gì. Nhưng cô không dám tâm sự với ai, kể cả anh Hoan và anh Hỉ đang học đại học. Cô sợ các anh chê, chưa nứt mắt đã yêu đương.

Thế rồi…

Trước ngày thi tốt nghiệp phổ thông, tin dữ làm Huệ bàng hoàng: Du hi sinh. Má Du đưa cho cô cuốn nhật kí của anh, cuốn sổ sờn mép, nhiều chỗ mực đã nhòe. Những dòng chữ nhảy múa, đầu óc cô chao đảo. Trang đầu toàn những hoài niệm. Trang sau Du kể nhiều chuyện về đơn vị nhưng có một chỗ làm Huệ giật mình. Anh viết: “Trái đất quả là chật chội. Lớ ngớ thế nào mình lại đụng thằng Lượm. Nó cao to lừng lững, mắt hí như mắt Đại Hàn. Trung đội trưởng nghe nói bọn mình biết nhau từ ngày còn bé thì rất ngạc nhiên. Anh không biết mình và Lượm từng có một cuộc tỉ thí đến giờ vai mình vẫn còn dấu răng của nó…”

Đến sau giải phóng, cầm tấm bằng cử nhân sư phạm, Huệ tình nguyện vào Nam làm giáo viên dạy bổ túc văn hóa. Du và Lượm được an táng tại một nghĩa trang miền Đông. Cô đã nhiều lần thắp nhang, ngồi rất lâu bên mộ anh. Chiến tranh đã cướp của Huệ mối tình đầu tươi đẹp. Nhưng nó mãi mãi không thể xóa Du khỏi kí ức của cô.

Sau này, Huệ được biết thêm về hoàn cảnh hi sinh của Du và Lượm. Số là mùa mưa năm ấy, tiểu đội của Du và Lượm vượt sông. Nhóm tiền trạm đã giăng một sợi dây từ bờ bên này sang bờ bên kia cho bộ đội đu qua. Lượm và Du đi đầu. Khi cả hai đang ở giữa dòng thì sợi dây rừng bị chặt đứt phựt. Thì ra, bọn biệt kích đã đội mưa rình bộ đội từ khi nào. Ba người, trong đó có Du và Lượm rơi xuống dòng lũ đang cuồn cuộn…

Bà Huệ chợt ngưng bặt. Hình như bà đã kể quá sâu câu chuyện đời mình cho một cô gái còn trẻ như Lanh. Để làm gì chứ, đằng nào thì thế hệ của cô cũng không cảm nhận và chia sẻ được với những mất mát của người tầm tuổi như bà. Nhưng bà Huệ lầm. Cô gái trẻ đang xúc động nghẹn ngào. Cô lấy tay chùi nước mắt như trẻ con. Những xao động của kí ức lắng dần, bà Huệ mỉm cười độ lượng, đưa khăn giấy cho cô gái:

“Thôi nào. Đừng mít ướt thế.”

Một làn gió bất chợt thổi tới, làm những sợi tóc trắng của bà Huệ bay bay. Hình như trong gió có tiếng người thì thầm…

H.N.Đ

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)