Hoa đào trên đảo vắng

Thứ Sáu, 31/01/2025 15:05

. PHẠM DUY NGHĨA
 

1.

Mùa xuân năm ấy, có hai cô gái trẻ ở Hà Nội không về quê ăn Tết mà rủ nhau lên miền núi đón năm mới tại một hòn đảo hiu quạnh trên hồ Thác Bà.

Hai cô đều xinh và làm công việc văn phòng. Một cô là Ngô Tú Ngân, dáng đẹp, người cao, gương mặt thanh tú. Cô kia là Hà My, thấp hơn một chút, gợi cảm, môi hồng. Cả hai đều độc thân và hình như vẫn còn trong trắng.

Minh họa: Lê Anh Vân

Chẳng phải loại người hư hỏng, hai cô cũng biết ngày Tết thì nên về sum họp với gia đình. Nhưng khổ nỗi, từ bé các cô đã trót yêu văn chương thơ phú và mang trong mình thứ máu phiêu lưu. My mê Robinson Crusoe của Daniel Defoe còn Ngân thích Đảo giấu vàng của Robert Louis Stevenson. Cả hai từng mơ mộng được dạt lên một đảo hoang, gieo lúa mạch và trồng dưa hấu, nuôi dê, sau nhiều năm thì được đón về trên một chiếc tàu có cánh buồm đỏ thắm.

Ngày hai chín Tết, đi xe khách từ Hà Nội lên Yên Bái, hai cô vào cảng Hương Lý lúc xế chiều và tìm đến một ngôi làng ở ven hồ hỏi thuê thuyền. Anh chàng chủ thuyền, cũng là chủ của một homestay trong làng, ngỡ ngàng nhìn hai cô gái xinh như hoa hậu gọn ghẽ trong bộ rằn ri màu sẫm, đi giày cao cổ và khoác ba lô du lịch căng phồng. Anh cho các cô thuê một chiếc thuyền nan nhỏ và sung sướng khi được huấn luyện cho hai người đẹp biết cách đạp mái chèo bằng chân. Rời ngôi làng xanh mướt những rặng bạch đàn non, chẳng bao lâu chiếc thuyền chỉ còn là một chấm đen trên mặt hồ bát ngát. Càng đi xa càng rợn ngợp, hai cô chốc chốc lại rú lên giữa màu xanh mênh mông như biển của hồ Thác Bà.

Thay nhau chèo, Ngân và My đưa thuyền đi qua nhiều đảo nhỏ đảo to nhưng chẳng nơi nào làm các cô vừa ý. Những đảo xưa kia là đồi thì được trồng tràm, keo, bạch đàn. Đến vùng đảo đá xưa kia là núi thì rậm rạp hoang vu. Hòn đảo mơ ước của hai cô phải là một dải núi mờ xanh, trên đó có thảo nguyên, có những triền nương bàng bạc sương chiều và thung lũng hoa rập rờn tím ngát.

- Ngày xưa có ông Alain Bombard(1) một mình chèo thuyền qua Đại Tây Dương, ăn cá sống, uống nước mưa, thế mà vẫn chả chết - Ngân nói - Tao với mày thì mới chèo một lúc đã mỏi nhừ.

- Cái ông Bombard tình nguyện làm người đắm tàu ấy à?

- Ừ.

- Tao nhớ rồi. Khi trở về ông ấy sút hai nhăm cân.

Càng xa đất liền, các đảo càng thưa thớt. Không khí lạnh hơn, gió thổi mạnh và sóng dềnh lên ì oạp vỗ vào mạn thuyền. Con thuyền chao đảo, tròng trành khiến hai cô lo sợ. Mải miết chèo, khi gió ngớt thì thấy trên làn nước bạc đằng xa nhô lên vài chấm xanh. Cái chấm to nhất lớn dần đến khi hiện rõ thành một núi đảo. Trải dài quanh núi là những triền cỏ rộng, trên đỉnh là thảm rừng xanh thẫm lộ ra những vệt trăng trắng của vách đá vôi. Ven núi rậm rì lau sậy, cây khô nhưng có doi đất chờm ra phía hồ như một cái bến. My reo lên:

- Đảo này được đấy!

- Ừ đảo này ngon đấy.

- Duyệt nhé?

- Duyệt.

Sau khi giấu thuyền ở ven núi, nơi nước hồ ăn sâu vào thành một cái vịnh nhỏ, Ngân và My lên đảo tìm chỗ dựng lều. Trên triền dốc My tìm được bãi cỏ khá phẳng phiu, xung quanh có cây mọc lúp xúp. Chiếc lều nhỏ xinh bằng vải bạt dã chiến, phồng căng vì gió, nhìn về hướng đông.

Từ trên cao trông ra hồ mới thấy phong cảnh ở đây tuyệt đẹp. Trên mấy đảo đá vôi lân cận, cây cối phủ xanh rì. Mờ xa phía chân trời là dãy núi dài màu lam bồng bềnh mây trắng. Ngân bảo, hình như là núi Cao Biền.

 

2.

Sáng tinh mơ, khi My còn đang ngủ thì Ngân đã dậy. Cô mặc áo phông quần soóc trắng tinh, chạy quanh triền núi mấy vòng, vừa chạy vừa hô “một, hai, ba, bốn” ầm ĩ. Rồi trở về lều lay vai My:

- Dậy đi mụ lười, dậy trang hoàng nhà cửa đi! Hôm nay ba mươi Tết, nhiều việc lắm đấy.

My mở mắt, làu bàu rồi cũng ngồi dậy. Sau khi ăn bữa sáng bằng bánh ngọt, hai cô bắt tay vào việc thiết kế bàn thờ. Ngân xuống hồ tháo mảnh ván để ngồi ở lòng thuyền mang về làm mặt bàn, còn My đốn cây ven rừng chặt ra làm bốn cái chân. Hai cô hí hửng bày lên bàn ít kẹo mứt, trái cây, ngơ ngẩn nhìn nhau rồi cười rũ rượi:

- Tết thế này là ngon rồi.

Ngân đứng chống nạnh, ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Năm mới năm me, không có cành đào thì không ra cái Tết. Mày ở nhà, tao vào núi xem có kiếm được hoa dại không.

Đi sâu vào trong đảo, Ngân thấy rộ lên tiếng chim hót ríu ran. Đảo rất nhiều chim. Trên các vách đá cheo leo là những cây bụi um tùm thấp thoáng tổ chim cùng thảm thực vật xanh rờn lấm tấm những bông hoa trắng muốt. Khắp nơi trong đảo, cây cối các loài mơn mởn ra lộc xanh. Không gian tươi mát, trong trẻo và hoang sơ làm Ngân ngây ngất. Mùa xuân thực sự đến rồi!

Đi qua bãi đá gập ghềnh, rồi trèo lên cao và len lỏi qua một khe đá hẹp, cô tới triền cỏ hình yên ngựa và thấy một cái hang trong lòng núi đá. Trước cửa hang có tảng đá to và phẳng. Trên sườn núi, bên trái có thác nước tung bọt trắng xoá, bên phải là rừng trúc ngằn ngặt xanh. Lại gần cửa hang, định ngó vào bên trong, cô bắt gặp đàn kiến tha từ trong đó ra một mảnh xương cá dài trắng nhợt. Lưỡng lự vài giây, cô hốt hoảng lùi lại. Trong hang nhất định có người!

Cô nép vào sau một tảng đá. Nhớ đến chuyện người ta vẫn kể về những tên tù trốn trại, những tội phạm bị truy nã thường ẩn náu trong những hang động trên hồ, cô ngồi theo dõi cái cửa hang tối đen. Lúc này cô đã bình tĩnh hơn. Cũng như My, trong người cô lúc nào cũng thủ sẵn một khẩu súng ngắn. Chỉ cần ấn nhẹ cò, từ họng súng sẽ phụt ra một luồng lửa xanh lam nóng hơn nghìn độ. Sức nóng của nó đủ làm cháy thịt da và biến dạng khuôn mặt. Loại súng bơm ga tự vệ ấy, cô mua trên mạng và chưa phải dùng tới bao giờ.

Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, cô lặng lẽ rời khỏi chỗ nấp. Về tới lều lúc giữa trưa, cô thấy trên bàn thờ có một cành đào. My đã cắt tấm bìa màu hồng trong sổ tay làm những cánh hoa đào, dán lên một cái cành khẳng khiu.

- Trở về tay không à? - My cười.

- Trên vách đá đầy hoa nhưng chả dám trèo, sợ rơi mất xác - Ngân nói - Trong đảo đẹp lắm, có biết bao nhiêu là chim!

Cô không kể gì với My về cái hang và mảnh xương cá.

Chiều tàn, sau khi đi lượm củi khô về chất thành đống cạnh lều để đêm đốt lửa trại, hai cô mở tiệc tất niên. Bữa ăn chiều ba mươi có một chiếc bánh chưng, chả, giò và một chai rượu. Ngân uống. My uống. Vừa uống vừa ngắm mặt hồ xanh thẳm êm đềm, chiếc tàu sơn trắng rẽ sóng chạy đằng xa, các đảo đá vôi mờ dần trong sương bạc.

Ăn xong, My say rượu chui vào túi ngủ. Đợi trời tối hẳn, Ngân mặc bộ rằn ri, đội mũ, bí mật lên rừng. “Nếu trong cái hang đó có người, thì chắc chắn ban đêm có ánh lửa le lói”, cô nghĩ. “Ta sẽ phục kích ngay cạnh cửa hang”.

Nhưng vừa tới bìa rừng, Ngân đã thấy sợ. Chưa bao giờ cô nghĩ cuộc đời lại có lúc đi một mình trong núi giữa đêm ba mươi Tết trên một hòn đảo heo hút thế này. Chợt nhớ đến Gulia trong truyện Cao điểm thứ tư(2), cô gái nhỏ tự thử thách lòng dũng cảm của mình bằng việc đêm khuya chạy vào rừng trên núi Gấu, cô can đảm dấn bước. “Mình không sợ, không sợ! Gulia đi được, mình cũng đi được!”

Trời tối quá nhưng cô không dám bật đèn pin vì sợ lộ. Nếu không có ánh sáng mặt hồ làm bóng tối nhạt bớt thì không nhìn thấy gì. Mỗi bước đi, cô lại cảm giác có hồn ma nào đó đang lặng lẽ bám theo mình, và đâu đây có tiếng rắn trườn trên cỏ, tiếng chim đập cánh trên cây, tiếng chân sột soạt cùng những đốm mắt xanh lét của thú rừng trong bóng đêm đặc quánh…

Lên tới triền cỏ hình yên ngựa, nhìn về phía hang chỉ thấy một màu đen ghê rợn. Xung quanh không có âm thanh nào ngoài tiếng rì rầm thác chảy. Tiến thêm vài bước, Ngân rút súng ra, nằm xuống và thận trọng bò lên tảng đá trước cửa hang. Cô nấp sau tảng đá hồi lâu và nghển cổ ngó vào trong hang. Lòng hang vẫn đen ngòm, tĩnh lặng.

Cô bò ngược trở lại trên bãi cỏ. Lối về qua khe đá hẹp, cô phải bật đèn pin vì quãng này khó đi và rất tối. Khi ánh đèn quét ngang vách đá, cô thấy có vật gì sáng lên.

Một chiếc dao găm, nằm trong kẽ đá từ bao giờ, lạnh buốt. Lưỡi dao có rãnh thoát máu. Chuôi dao bằng sừng, chạm trổ hình đôi nam nữ đang giao cấu, màu nâu vàng.

Về tới lều, cô ngạc nhiên thấy My vẫn ngủ. Bị lay gọi, My chép chép cặp môi hồng mọng: “Tao vừa mơ thấy mình lạc vào một khu vườn toàn hoa đào và gặp cả mẹ tao ở đó. Hai mẹ con chầm chậm dắt nhau đi…”

Khoảng mười giờ đêm, trời trở lạnh. Gió thổi làm chiếc lều rung lật phật, cành đào trên bàn thờ rơi xuống đất. Những khóm cây quanh lều rên xiết, ngả nghiêng. My ra bãi cỏ châm lửa vào đống củi. Củi khô bắt lửa, nổ lép bép, réo vù vù. “Đêm giao thừa mà sao nhiều gió thế”, My lẩm bẩm. Vẫn còn say rượu, cô nằm xuống cạnh đống lửa và lại ngủ thiếp đi.

Một mình Ngân ngồi ngắm mặt hồ đêm. Cô nhớ những cái Tết ở quê, vùng đất ven biển thuộc Thái Bình, năm nào cũng đi hái lộc xuân cùng chị gái sau giao thừa. Lại nhớ có năm ở lại Hà Nội chơi Tết, đêm ba mươi hoà vào dòng người náo nức đi trong ánh sáng rực rỡ dọc hồ Gươm. Cứ ngồi nghĩ miên man, đến lúc chợt nhớ ra, cô vội bật nguồn điện thoại. Và đánh thức My, giọng gấp gáp:

- Dậy, dậy! Giao thừa rồi đó. Chủ tịch nước đang chúc Tết rồi!

Từ rất xa trên hồ vẳng lại tiếng lục bục, ì ầm. Hình như đang bắn pháo hoa ở phía nhà máy thuỷ điện. Khoảng trời nơi đó hồng lên.

My nhỏm dậy, ngồi cạnh Ngân. Lửa cháy suốt đêm trên đảo vắng.

Minh họa: Lê Anh Vân

3.

Sáng mồng một Tết, trời tuyệt đẹp. Mặt hồ xanh biếc, êm ả. Không khí se lạnh và trong vắt, như không hề có trận gió đột ngột đêm qua.

Ngân dậy sớm. Sau khi chạy thể dục vài vòng ở lưng núi, cô rẽ xuống hồ. Buổi sáng đầu năm, cô muốn tắm cho sạch sẽ.

Đi qua bãi rậm nhiều lau sậy, cô đến cái vịnh nhỏ, nơi giấu chiếc thuyền. Chỗ này khá nông và có nhiều cây chết khô vì nước ngập. Đứng nhìn phong cảnh ấy, cô chợt thấy nó hao hao giống bức tranh Mùa xuân, con nước của Levitan. Cũng một con thuyền bé nhỏ cô đơn, và qua những thân cây cong queo màu trắng, có thể nghe tiếng sóng vỗ óc ách cùng màu xanh rợn của nước hồ.

Cô thong thả cởi bộ rằn ri rồi cởi xu chiêng, quần lót vắt lên mấy nhành cây khô và thả mình xuống nước. Nước lạnh làm cô kêu lên khe khẽ. Những cây rong xanh trong nước đung đưa mềm mại cọ vào da thịt buồn buồn. Vừa tắm cô vừa ngắm nghía cơ thể đẹp đến từng chi tiết và kiêu hãnh mỉm cười, không biết tấm thân nuột nà của mình còn làm bọn đàn ông chết thèm bao nhiêu năm nữa.

Rồi cô chợt nghĩ, hôm nay hồ đẹp quá, xanh quá, hay là cứ khoả thân thế này mà chèo thuyền đi một vòng trên hồ tận hưởng cái thú tự do tuyệt đối xem sao. Nơi đây vắng ngắt vắng ngơ, lại sáng mồng một đầu năm, không thể có người qua lại.

Nghĩ là làm, cô trần truồng bước lên thuyền sau khi tháo dây buộc rồi cho nó quay đầu hướng ra mặt hồ mênh mông. Thuyền vừa lướt tới doi đất từ ven đảo nhô ra, cô nhìn thấy một thân hình đàn ông to lớn nằm sấp trong lùm cỏ. Trên người ông ta chỉ có mảnh quần đùi ướt đẫm, bắp tay nổi gân nổi múi xăm hình một con đại bàng.

Không kịp suy nghĩ, Ngân nhảy ùm xuống nước và bơi vào bờ. Mặc quần áo xong, cô chạy vòng qua triền lau rẽ xuống doi đất. Tới bờ cỏ, cô rút súng chĩa vào tai người lạ, tay kia cố gắng lật ngửa ông ta.

Người đàn ông trông như người rừng, khuôn mặt chìm trong lớp râu xám xanh rậm rạp. Bộ ngực lồi lõm phập phồng, xùm xòa lông lá. Đôi mắt nhắm nghiền, đôi môi tím ngắt. Ngân cất tiếng gọi My.

Chật vật lắm hai cô mới khiêng được ông ta lên tới lều. Theo phán đoán của Ngân, người này đã bơi qua hồ và bị cảm lạnh. Việc cấp cứu được tiến hành gấp gáp. My lấy dầu gió xoa kĩ tứ chi và vùng trán, Ngân đập giập củ gừng tươi ngâm nước nóng đổ vào miệng ông ta. My nhặt củi khô đốt một đống lửa to, còn Ngân dùng khăn tẩm rượu bọc bã gừng chà xát khắp người cho tới khi ông ta đỏ bầm như một con gà chọi. Nhìn chiếc quần đùi sũng nước, Ngân ngần ngại. My bảo: “Để tao”.

My lột chiếc quần ra và giật mình. Bên dưới rốn của người đàn ông có một vệt màu xanh lam sắc nét hình trăng lưỡi liềm. Cô tưởng là hình xăm nhưng nhìn kĩ thì thấy là vết bớt. Ngân chườm khăn vào chỗ đó, rồi dỡ chiếc túi ngủ thơm nức nước hoa màu tím ra làm chăn mỏng quấn quanh người ông ta.

Xế trưa thì người lạ tỉnh dậy. Nhìn hai cô gái trẻ xinh đẹp vận đồ rằn ri bó sát thân mình, cô nào cũng đeo súng bên hông, ông dè dặt hỏi:

- Các cô… là bộ đội à?

Thấy chai rượu ở góc lều, ông xin phép cầm tu một ngụm rồi chậm rãi kể. Ông tên Nguyên, họ Khuất. Mấy năm về trước ông xuống nước cũng như đi trên cạn, tài bơi lặn lừng lẫy khắp vùng hồ. Mùa xuân ông thích bơi buổi sáng. Mùa hạ bơi dưới ánh trăng vàng. Sớm nay nổi hứng đầu năm, cũng là để thử sức mình, ông đã bơi từ hòn đảo mờ xa kia đến đảo này nhưng được nửa đường thì ớn lạnh. Càng bơi càng đuối sức, có lúc tưởng chết giữa hồ.

- Xuân này ta vừa tròn bảy mươi, cũng già rồi. Ta như con tắc kè, sẽ có ngày chết khô trên vách đá.

My hỏi vì sao ông lại bơi đến đảo này mà không phải là đảo khác, ông nói thời trai trẻ ông từng sống ở đây một mình, trong một động đá vôi. Buổi chiều hai chín Tết ông có ghé thăm đảo và ngồi nướng cá uống rượu trên tảng đá trước cửa hang để nhớ lại ngày xưa. Hôm ấy ông mang theo con dao găm, không biết đánh rơi ở chỗ nào, hôm nay muốn vào tìm lại...

Ngân đứng dậy, lấy chiếc dao găm cô nhặt được trao cho ông.

- Cháu nhìn thấy nó trong kẽ đá.

Ông già đón nhận con dao, nâng nó bằng hai tay, cảm động:

- Cám ơn con. Ta lại cứ tìm trên bãi cỏ... Với ta, nó là một báu vật. Cám ơn con.

Đêm ấy, trong ánh lửa bập bùng bên căn lều dã chiến, ông kể cho hai cô gái nghe chuyện cuộc đời mình.

 

4.

Năm mươi năm trước, Nguyên là công nhân xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà. Sau khi nhà máy được khánh thành, anh lênh đênh mười năm khắp các chốn vùng hồ, chài lưới bắt cá, đánh rọ tôm kiếm sống. Bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác, anh không còn ai để nương tựa trên đời.

Một ngày tới đất Cảm Ân, vào xóm nhỏ bên hồ anh thấy một ngôi nhà có cô con gái lúc nào cũng ngồi thêu bên cửa sổ. Cô nhỏ nhắn, xinh đẹp với làn da trắng, má hồng.

Dạo ấy là mùa xuân, trước nhà cô gái có cây đào nở hoa hồng rực. Cành xuân soi vào khung cửa khiến gương mặt cô càng hồng lên bởi sắc hoa đào. Không cầm được lòng mình, Nguyên lân la tìm cớ đến nhà cô chơi.

Cô tên là Nhi, sống với bố mẹ và em trai. Ngay từ buổi đầu, cô gái đã mến anh như quen biết từ lâu và ngày càng quan tâm đến anh một cách kì lạ. Cô lo lắng khi thuyền anh chưa về trong lúc trời có bão. Cô rưng rưng nước mắt khi thấy anh bị vây cá rạch xước ngón tay. Anh chỉ sốt nhẹ, mệt xoàng, cô cũng ra vườn hái rau diếp cá giã nát đắp vào trán anh. Áo anh rách vai, cô vừa ngồi vá cho anh vừa khóc. Tình thương và sự dịu dàng hết mực của người con gái kém anh chục tuổi như cơn mưa đầu mùa tưới mát tâm hồn anh cằn cỗi. Khi biết bao năm qua cô chỉ tập tễnh quanh nhà với bàn chân mang sẹo bỏng, anh thầm nhủ sẽ làm một người chồng suốt đời tận tụy vì cô.

Một hôm, nhân lúc cả nhà cô đi vắng, anh ngỏ lời cầu hôn cô. Chẳng ngờ, cô nói rằng kiếp trước cô là mẹ của anh, kiếp này hai người không thể lấy nhau được.

- Kiếp trước mẹ con mình sống ở Nghĩa Lộ - Cô nói, nước mắt ứa ra giàn giụa - Nhà mình ở chân đồi, phía sau là núi, mẹ là góa phụ và chỉ có mình con. Vậy mà mẹ đã giết con, tội của mẹ muôn đời không tha thứ được…

Nói đến đó, cô òa lên khóc. Tiếng khóc đau đớn như xé ruột. Nguyên luống cuống, không biết phải làm gì.

- Bữa ấy mẹ địu con lên rừng đào măng. Tháng ba, khi mưa xuân làm ẩm đất cũng là lúc rừng cho rất nhiều măng sặt, măng vầu. Mẹ đặt con ngồi trên một thân cây đổ ở bìa rừng, đầu nương ngô đã thu hoạch vụ đông, khúc cây này có vỏ xám viền đen lẫn trong lá mục. Mẹ đưa con một nắm xôi và bảo, xôi từ hôm qua nên hơi rắn, lúc nào đói con ăn tạm, đợi mẹ đào măng đầy sọt thì về. Rồi mẹ tha thủi đi tìm những chồi măng mới nhú đầu mùa, trong buổi sáng se lạnh mùa xuân, rừng sặt trải ra bạt ngàn xanh ngắt. Về trưa trời hửng nắng, mẹ nghe tiếng con kêu.

“Rắn… mẹ ơi… cơm rắn…”

Mải đào măng, mẹ chỉ ngoái đầu đáp xuống:

“Con gắng ăn cơm rắn, trưa về mẹ nấu cho con cơm mới, ăn với măng luộc chấm mẻ con à!”

Khi sọt đã đầy, mẹ đi xuống chỗ con ngồi thì không thấy con đâu. Cái khúc cây vỏ xám viền đen cũng biến mất. Mấy gốc ngô khô quanh đó đã bị cái gì quần nát, và trên đám lá mục có vài vết máu còn tươi.

Hoảng loạn, mẹ chạy đi các ngả tìm con. Cuối cùng như có người mách bảo, mẹ lao xuống một vạt rừng tối và ẩm, phía dưới là hẻm rậm mọc nhiều cây dương xỉ xen lẫn những bụi chuối rừng. Bên gốc một cây vầu, mẹ thấy một con trăn nằm dài trên bãi lá khô. Mặc dù ở đó hơi tối, mẹ vẫn nhận ra nó là một con trăn đất, đầu chỉ bằng bi chuối hột nhưng cái bụng phình to một cách khác thường.

Loài trăn khi đã ăn no thì rất hiền lành. Sẵn con dao đào măng sắc nhọn trong tay, mẹ gào khóc và băm nát đầu của nó. Lôi xác trăn còn giãy giụa ra nương ngô, dưới ánh mặt trời, mẹ dùng dao rạch cái bụng căng phồng đầy mỡ. Vừa thấy ló ra màu đỏ của chiếc quần con mặc, mẹ ngất đi.

Sau này nghĩ lại mẹ mới hiểu, cái thân cây mẹ đặt con ngồi trong buổi sớm hôm ấy chính là con trăn. Nó xám đen, mốc thếch lại rúc vào lớp lá mục ẩm ướt màu nâu nên mẹ tưởng nhầm là thân gỗ. Khi nắng lên, con trăn bị nóng nên cựa quậy. Con sợ hãi gọi mẹ, miệng kêu “con rắn” nhưng mẹ lại nghe thành “cơm rắn” và đã để mặc nó ăn thịt con.

… Kể đến đây, cô gái nhìn anh, trìu mến thiết tha, rồi đưa tay ve vuốt mái đầu anh như xoa đầu một đứa trẻ. Trên khuôn mặt xinh xắn, nước mắt vẫn đầm đìa.

- Mẹ chôn con bên dòng Thia, dưới bóng cây đa già. Nơi đó có tảng đá lớn nằm trên suối, gờ đá phủ đầy rêu xanh. Đêm trước ngày con bị trăn nuốt, trên đỉnh núi sau nhà hiện lên vành trăng lưỡi liềm, nên trước khi hạ huyệt mẹ đã lấy bột chàm xanh đánh dấu hình trăng khuyết vào dưới rốn con, mong được nhận ra con trong kiếp khác. Bao giờ về đất Mường Lò, con nhớ tìm cây đa ấy, bên suối Thia có mô đất mẹ đã xếp lên rất nhiều đá, đó là mộ kiếp trước của con.

 

5.

Một ngày mùa thu, anh ra đi.

Hôm ấy có đàn cò bay rợp trắng mặt hồ. Những trái đồi bồ đề vào mùa lá rụng, trơ cành xơ xác, đẹp và mênh mang buồn.

Trước hôm đi anh đến từ biệt cây đào, bâng khuâng nhìn những cái cành khẳng khiu của nó, dù chỉ đứng trên thuyền trông lại từ xa. Tạm biệt ngôi nhà nhỏ bên hồ, tạm biệt mảnh đất Cảm Ân, chẳng biết bao giờ gặp lại.

Anh đã hết lời năn nỉ cô. Anh nói, có thể kiếp trước cô là mẹ anh thật, nhưng điều đó chẳng can hệ đến kiếp này. Anh yêu cô, sao không thể cùng nhau một kiếp vợ chồng. Cô nói, thương anh vô hạn, nhưng trong lòng cô chỉ có tình mẫu tử mà thôi.

Anh hỏi vì sao cô nhận được ra anh là con trong tiền kiếp của cô. Cô bảo trời đất linh thiêng đã cho cô nhìn thấy. Buổi đầu gặp anh bên cửa sổ, trong trí cô lúc ấy, bao nhiêu hình ảnh đời trước bỗng hiện về.

Buồn bã, anh ra đi không nói với cô một lời. Lại sống đời lang bạt kì hồ, nay đây mai đó. Về đất Thịnh Hưng hái chè cho nông trường. Xuống mạn Hán Đà khai thác cát sỏi bên sông. Treo mình đục đá trong mỏ đá vôi trắng ở Mông Sơn. Làm công nhân lâm trường Thác Bà, đốn gỗ chặt vầu trong những cánh rừng heo hút ở Vũ Linh, vỡ đất trồng cây trên triền núi Cao Biền xanh thẳm. Đi đâu anh cũng không quên được cô. Nhiều lúc muốn trở về, chỉ để nhìn thấy đôi mắt phảng phất u hoài của cô, để xin được một lần hôn lên bàn chân nhỏ nhắn của cô, bàn chân tật nguyền do ngày bé đánh đổ nồi cám lợn đang sôi trên bếp.

Đôi khi anh cũng bị ám ảnh bởi câu chuyện kiếp trước, và thấy căm hận loài trăn. Nhưng sống giữa nước độc rừng thiêng, dù đã gặp nhiều hươu, nai, lợn rừng, gấu, khỉ, anh không hề trông thấy một con trăn nào.

Mùa thu năm ba chín tuổi, anh tới Xuân Long, miền đất xa xôi hẻo lánh nhất của huyện Yên Bình. Một buổi chiều, anh dự lễ cấp sắc ở bản người Dao quần trắng, uống rượu say khướt rồi khật khưỡng đi về bản người Tày. Hoàng hôn mênh mông buông xuống núi đồi và triền cỏ tranh rực vàng sáng ửng lên dưới ráng chiều đỏ thắm. Đang ngất ngư xuống dốc, chợt nghe đằng sau có tiếng động lạ, anh quay phắt lại và thấy một con trăn dài thượt đang trườn trên cỏ. Con vật ngóc đầu nhìn anh bằng đôi mắt tròn hoang dã, và ngay lập tức, nó tấn công anh.

Vươn cái cổ dài, nó đớp mạnh vào tay anh. Anh rút dao găm, đâm nhát trúng nhát trượt rồi bỏ chạy. Con trăn đuổi theo, lướt trên cỏ tranh vèo vèo như gió. Tới chân dốc, nghĩ chạy theo đường rừng thì chết, anh phi thân bay qua bãi rậm và lao thẳng xuống hồ.

Khoảng hồ hẹp nhưng xanh rợn và sâu. Anh vừa bơi vừa nhìn máu từ bàn tay xối vào trong nước. Bờ bên kia là quả đồi thấp, khi trèo lên tới đỉnh, anh thấy con trăn cũng đang bơi ào ạt qua hồ.

Anh chạy trên triền đồi qua bãi cây dại um tùm. Vết cắn làm anh buốt tận xương và rỏ máu ròng ròng xuống cỏ. Con trăn sắp đuổi kịp anh, quăng mình qua những bụi cây, ào ào như bão. Xông vào cánh rừng thưa, anh chạy vòng vèo qua các gốc cây rồi lao đánh rầm vào một bụi nứa. Chui vào giữa những cây nứa ken dày thẳng đứng, anh chắc mẩm, đây sẽ là pháo đài kiên cố của anh.

Con trăn thoăn thoắt leo lên bụi nứa và dùng thân quấn chặt vòng quanh. Lực siết của nó nhằm đúng tầm ngực anh làm anh ngạt thở. Tiếng nứa vỡ lốp bốp như pháo nổ. Bỗng vòng quấn từ từ nới lỏng, thì ra con trăn đau đớn vì bị mảnh nứa giập cứa vào da. Thừa cơ, anh rút dao găm đâm túi bụi qua kẽ nứa. Vừa đâm anh vừa chửi rủa, gào thét vang rừng trong nỗi hả hê được trả thù cho kiếp trước. Con trăn cong mình quằn quại trườn xuống cỏ. Anh cũng ngã lăn cạnh nó, thở hồng hộc, nôn ra một bãi toàn rượu xanh lè.

Trong ánh tà xanh lam nhập nhoạng, anh lôi con trăn ngắc ngoải về bản người Tày. Nhìn anh ướt sũng, đầy máu, bẩn thỉu và ngây dại, ông cụ người Tày cười khành khạch:

- Mày bị trăn gió đuổi. Con này là trăn gió, trăn gấm, trăn mắt võng, cũng gọi là con nưa. Con nưa hay từ núi mò về bản ăn gà ăn vịt của nhà ta, có buổi trưa ta nghe tiếng quẫy ùm ùm lẫn tiếng vịt kêu oạp oạp trên mặt ao, chạy ra đến nơi thì mất hai con vịt. Có hôm ta thấy nó cuộn mấy vòng thành đống lù lù trên cành cây sung ở bờ ao, đầu chúc xuống nước, chắc chắn là con nưa này.

Con trăn dài bảy mét rưỡi, nặng hơn một tạ. Thân to bằng cái phích, vằn vện, màu hạt dẻ điểm nâu vàng. Anh biếu ông cụ người Tày cả con. Một nửa chui vào nồi thịt của ông, nửa kia biến thành những thỏi cao trăn đặc quánh.

Ít lâu sau anh say rượu ngã vập mặt vào cái kiềng trên bếp lửa, cằm nứt ra vì bỏng, phải xin ông cụ lọ mỡ trăn về bôi. Bôi xong, chẳng ngờ râu cằm mọc ngược vào trong làm anh nhức nhối. Đau chảy nước mắt, anh nhìn lên núi chửi: “Tiên sư loài bò sát khốn nạn. Kiếp trước ông nợ nần gì chúng mày mà chúng mày báo hại ông đến bây giờ. Từ nay gặp con trăn con rắn nào giữa đường, ông băm vụn!”

Một hôm anh chợt nhớ, trăn và rắn rất kị cây sắn dây. Khi bắt trăn người ta thường quăng sợi sắn dây rừng vào cổ trăn khiến nó nằm đờ ra, mềm nhũn như con giun đất. Anh thử lấy lá sắn dây rừng giã nát và đắp lên cằm thì thật kì diệu, lớp mỡ trăn ngấm sâu vào da tan hết, râu cằm lại tua tủa mọc ra.

Từ đó anh thấy yêu cái màu xanh lơ, tím biếc của hoa sắn dây, loài hoa có mùi thơm dịu dàng, cũng như biết ơn con dao găm có chuôi bằng sừng đã cứu anh thoát nạn.
 

6.

Cuối thập kỉ tám mươi, đất Lục Yên dậy sóng bởi những cuộc đi tìm ngọc. Trên bản đồ của huyện, màu xanh rừng núi bị xóa dần, thay vào đó là màu trắng chói chang của đá bị nổ mìn, màu đỏ lở loét của đất đai bị đào bới.

Nguyên bỏ lâm trường, lên Lục Yên tìm vận may. Nhưng anh không đi theo những đoàn người từ khắp nơi đổ về các núi đồi thung lũng, mà nhập vào một nhóm nhỏ ở khu vực thượng nguồn hồ Thác Bà.

Nhóm của anh gồm sáu người, sống bằng cá khô và rau dại, dựng lán tạm bợ ven rừng. Trong nhóm có cậu Bình mắt ốc nhồi, người Cảm Ân, biệt danh là Bình trố. Anh hỏi có biết nhà Nhi không, Bình bảo biết. Cậu ta còn nói: “Chị ấy vẫn chưa lấy chồng. Mấy năm qua chị ấy vẫn nhờ mọi người hỏi tìm tung tích của anh. Nhưng cái hồ Thác Bà này, hơn một nghìn ba trăm hòn đảo, biết tìm anh ở đâu. Chị ấy buồn lắm đấy.”

Anh ra một xó rừng ngồi khóc. Người con gái ấy vẫn thương anh, vẫn đau đáu nghĩ về anh, vậy mà anh thật tệ. Chỉ vì một chút buồn giận mà anh đã không gặp cô, suốt tám năm trời. Anh quyết định tìm thấy ngọc sẽ trở về. Sẽ dựng một ngôi nhà và sống cả đời ở Cảm Ân, dù không được làm chồng thì cũng làm một người thân trong gia đình cô vậy.

Hơn một tháng hè, nhóm của anh dùng máy hút bùn và cát sỏi từ đáy hồ lên rồi xả vào một hố sâu như cái ao trên bờ để đãi tìm đá quý, nhưng quẩn quanh chỉ toàn đá cám, ngọc vụn. Mọi người nản lòng, tính chuyện đi nơi khác. Những buổi trưa thanh vắng, tiếng chim bắt tép kho cà vọng ra từ hẻm đồi sau lán làm cảnh vật đã buồn lại càng buồn.

Một hôm máy đang hút thì bị tắc, kiểm tra vòi thì thấy trong đó có một khúc xương người. Là tay bơi cừ nhất, Nguyên được cử lặn xuống đáy hồ. Anh mò mẫm vớt lên được gần đủ bộ xương, riêng chiếc đầu lâu chìm xuống chỗ sâu phải dùng máy hút kiệt bùn mới thấy.

Những mẩu xương vàng xỉn được rửa sạch bằng rượu, bày trên tàu lá chuối rừng. Xong xuôi, Bình trố thắp hương, đứng khấn:

- Không biết là ông hay bà, là già hay trẻ, xin quý vong linh phù hộ độ trì cho chúng tôi trúng đá cuộc này. Nếu trúng, xin hứa sẽ xây mộ tử tế, thờ phụng đàng hoàng, thậm chí xây cả tượng đài. Xin hứa!

Cả nhóm đồng thanh hô: “Xin hứa!” Bộ xương được vùi tạm ở ven rừng.

Đêm ấy, trăng sáng vằng vặc giữa trời. Về khuya, tiếng chim bắt tép kho cà bỗng cất lên trên quả đồi sau lán. Loài đa đa này thường chỉ gáy ban ngày, không hiểu sao hôm đó lại gáy đêm. Tiếng chim không vọng ra từ khe hẻm mọc nhiều sẹ và môn thục như mọi khi, mà ở sườn đồi nơi có bụi chít và cây màng tang, loài cây có lá rất thơm mà Bình trố vẫn bẻ cành mang về lán để xua muỗi.

Đêm hôm sau, con bắt tép kho cà lại kêu ở chỗ đó. Nó kêu da diết từ nửa đêm đến lúc trời rạng sáng. Đúng bảy giờ, sau khi mọi người đã húp mì tôm lót dạ, ông Nghiệp nhóm trưởng chỉ tay về phía cây màng tang, ra lệnh: “Đào lên!”

Cả nhóm xúm vào đào cật lực. Sâu hơn một mét thì bắt đầu thấy ngọc. Những viên ru-bi long lanh đỏ tía. Những viên xa-phia huyền bí xanh lam. Thêm nửa mét nữa thì thấy hiện ra bích ngọc óng ánh lá xanh, hồng lựu ngọc đỏ sẫm huy hoàng nằm bên khối đá phát quang chứa những viên thạch anh tím… Ánh sáng lung linh từ châu báu tỏa lên làm cả sáu người mê man, đờ đẫn. Bình trố đứng dậy hét như xé phổi:

- Đổi đời rồi! Sướng quá, vợ ơi!

Tiếng thét lan dài trên mặt hồ Thác Bà. Ông Nghiệp bưng mặt khóc. Mấy cậu trai trẻ nhảy chồm chồm quanh hố, cùng hát vang bài Mùa hè Italia (3).

Số ngọc được phân loại, chia đều cho cả nhóm. Riêng Nguyên có công lặn xuống hồ vớt xương người chết, được nhiều hơn mọi người.

Ngay chiều hôm ấy Bình trố chèo thuyền về Cảm Ân, đưa ngọc cho vợ cất giấu. Hai ngày sau trở lại lán, cậu ta nói với Nguyên: “Em nghe nói nhà chị Nhi sắp chuyển về dưới xuôi rồi. Ngôi nhà ấy hình như đã có người hỏi mua. Anh thu xếp tuần này về Cảm Ân đi, may ra thì kịp gặp.”

Nguyên sững sờ. Lúc ấy là hoàng hôn, ánh tà dương vàng vọt tắt dần ở lưng đồi. Khoảng hồ bên rừng trở nên lạnh lẽo. Bóng tối đang trườn trong lũng sâu.

Anh quyết định về Cảm Ân ngay đêm đó. Khi mọi người đang mải mê chơi bài, uống rượu, anh lặng lẽ bước xuống con thuyền của Bình trố, chèo đi.

Thuyền đi giữa hồ trăng. Đang thượng tuần tháng bảy, trăng ở rừng đã sáng, trăng trên hồ càng sáng hơn. Mặt hồ vắng vẻ bao la, sóng lăn tăn lấp lánh như dát bạc. Nhưng anh không còn lòng dạ nào để ngắm đêm trăng đẹp, cũng chẳng bận tâm đến túi ngọc cồm cộm trong người. Suốt dặm dài thăm thẳm đường về, anh chỉ nhìn thấy gương mặt cô, người con gái lúc nào cũng dịu dàng, luôn quên bản thân mình để lo lắng cho người khác. Thấp thoáng sau gương mặt ấy, anh nhìn thấy người mẹ của mình ở kiếp trước, người mẹ lam lũ đáng thương đã địu mình lên rừng sặt, tha thủi đi tìm những ngọn măng mới nhú đầu mùa. Người mẹ đã giết con trăn trong đau đớn kinh hoàng, đã ngất giữa nương ngô khi thấy xác con màu đỏ… Nghĩ tới đó, nước mắt anh bỗng trào ra, miệng méo xệch run run như đứa trẻ. Ngửa mặt lên trời nhìn trăng sáng, anh cất tiếng gọi: “Mẹ ơi!”

Quá nửa đêm anh mới về tới đất Cảm Ân. Cảnh vật có khác xưa nhưng anh vẫn nhận ra mảnh vườn của nhà cô, ngày trước trồng rau, bây giờ là một bãi mía. Xóm nhỏ nhà thưa, nhà cô lại đứng lẻ loi một mình ở bên hồ nên quãng này rất vắng. Anh hồi hộp và lo sợ, chưa biết nên gõ cửa hay ngồi chờ đến sáng trên thuyền.

Ngôi nhà đóng cửa, im lìm. Anh cho thuyền ghé sát bờ, ngồi nghe ngóng hồi lâu rồi thận trọng bước vào sân. Lúc này trăng đã lặn, anh sờ lên những cành gầy guộc của cây đào trong bóng tối, thấy thân thương cảm động vô cùng. Gió bỗng nhiên thổi lộng, những tàu lá chuối khô lật phật, cây đào lay động xôn xao, cả vườn mía cũng xào xạc reo trong đêm khuya vắng.

Nhìn quanh nhà trống trơ và chiếc dây phơi không treo quần áo, anh nhận ra một điều mà anh đã ngờ ngợ từ lúc bước vào không thấy chó sủa: trong nhà không có người.

 

7.

Sáng mồng hai Tết, Khuất Nguyên đưa hai cô gái xinh đẹp về thăm nơi ở của ông trên một hòn đảo. Đến nơi, hai cô sửng sốt khi thấy đó là một quả đồi lớn chìm trong sắc hồng bát ngát của hoa đào.

Một màu hồng mênh mông hào phóng chảy tràn trên khắp sườn đồi. Một màu hồng thật ấm, thật dịu, thật thơ trong tiết lạnh mùa xuân như được vẽ ra dưới bàn tay một họa sĩ ưa tả thiên nhiên nhưng phung phí màu sắc.

Thuyền vừa cập bờ, Ngân và My không ghé vào ngôi nhà sàn bé nhỏ nhô lên giữa biển hoa đào mà kéo nhau chạy lên mỏm đồi cao khám phá sườn bên kia của đảo. Hàng vạn cây đào cành vươn xùm xòa, hoa lấm tấm rắc đầy mặt đất. Những cánh mỏng manh màu hồng phớt, xen lẫn chồi xanh thiết tha.

Buổi trưa, tiệc xuân được bày trên chiếc bàn đá giữa những cội đào, nhìn ra mặt hồ gợn sóng long lanh. Trong tiếng gió thổi ào ạt khắp đồi hoa, ông Nguyên nâng chén rượu nói:

- Không có các con, ta sẽ thành bộ xương trắng ven hồ. Ơn cứu mạng này, không biết lấy gì đền đáp được. Âu cũng là duyên trời định, ta muốn nhận hai con làm con gái. Nếu hai con đồng ý, ra giêng ta sẽ làm thủ tục nhận con…

Ngân và My cùng reo lên:

- Bố!

Ông nói tiếp:

- Ta sống một mình trên đảo này đã hai mươi năm, không người thân, không người thừa kế. Ngôi nhà kia từ nay là của các con. Số tiền bán ngọc ở Lục Yên, ta còn vài chục tỉ gửi ngân hàng, cũng để cho hai đứa chúng mày hết cả.

My lại reo lên:

- Bố!

Ngân bình thản nói:

- Chúng con không cần tiền của bố. Từ nay năm nào chúng con cũng sẽ lên đây thăm bố, thấy bố khỏe, thấy hoa đào rực rỡ, thế là chúng con vui rồi.

Ba bố con cùng cạn chén.

Mặt hồng lên bởi rượu và sắc hoa đào, My hỏi vì sao trên đảo trồng toàn đào phai, và chỉ thấy hoa đào cánh đơn mà không có hoa đào cánh kép. Ông Nguyên nói, cây đào của nhà cô Nhi là đào phai có hoa đơn năm cánh. Hai mươi năm trước, ông đã lấy hạt từ cây đào đó rồi ươm giống và nhân rộng ra khắp đảo này.

- Từ ngày ấy bố có còn trở lại thăm ngôi nhà đó lần nào nữa không? - Ngân hỏi.

- Thuở trước mỗi năm cứ vào tiết xuân bố lại chèo thuyền qua nơi đó để được nhìn thấy cây đào nở hoa, nhưng lòng lại càng buồn vì hoa đào vẫn rực hồng mà người xưa không còn bên khung cửa. Ngôi nhà cũng có chủ mới, có lần bố ghé vào hỏi thăm, họ nói nhà cô Nhi chuyển về quê nội ở Hà Nam nhưng không biết thuộc huyện nào. Rồi cây đào cũng già và lụi tàn, từ ấy bố không còn qua đó nữa…

- Chuyện của bố cứ như chuyện tình Thôi Hộ vậy - Ngân mỉm cười - Một ngày xuân, Thôi Hộ trở lại kinh đô, thấy hoa đào vẫn cười với gió đông nhưng người con gái năm xưa thì đã vắng. Chàng mới đề thơ lên cánh cổng rằng:

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong (4)

My nhanh nhảu tiếp lời:

- Bài này, dịch thơ thành lục bát có bản của Trần Trọng Kim (5). Còn thể thất ngôn tứ tuyệt, để My thử dịch nhé.

Cô ngẫm nghĩ một lát rồi đọc:

Ngày này năm ngoái thấy bên song

Một sắc đào tươi ửng má hồng

Người xưa chẳng biết giờ đâu vắng

Chỉ thấy hoa cười trong gió đông (6)

Ngân khen My dịch sát với nguyên tác. Ông Nguyên không hiểu mấy nhưng cũng khen hay. Ba bố con vỗ tay, rồi lại cùng cạn chén.

Cuộc bình thơ bên hoa và rượu kéo dài hết buổi chiều. Về nhà sàn, ông Nguyên ngồi đun nước nóng cho hai cô con gái yêu tắm. Ngân bảo: “Bố đừng chiều quá làm chúng con hư đấy.” My nói: “Kệ, chẳng mấy khi bố được chiều chuộng con gái. Bố hái cho con ít lá đào non nhé, để con gội đầu!” Ông Nguyên cười hiền: “Cô độc mãi, cuối đời ta lại được trời ban xuống cho hai đứa con gái đẹp như tiên sa thế này. Chẳng biết đây là đảo hoa đào hay là chốn bồng lai?”

Hôm sau, mồng ba Tết, ông dành cả ngày đưa các cô du ngoạn trên hồ. Ba người lên chiếc thuyền có mui rộng rãi, đầu mui cắm một cành đào. Ngân và My ngời sáng trong hai bộ quần áo gió trắng tinh, trông mơn mởn như hai đóa hoa xuân tươi mát đẫm sương vừa hái từ thung lũng. Ông Nguyên cho thuyền ngược lên tận thượng nguồn hồ Thác Bà, đi qua những xóm mạc thanh bình và dạo quanh những động đá vôi. Trời lạnh và trong, thuyền nhẹ lướt trên mặt hồ phảng phất khói sương, cành đào ở mui thuyền lấp loáng gieo những giọt hồng trong nước biếc. Ba bố con đọc thơ, uống rượu, cười vui náo động cả vùng hồ.

Trên đường về ông Nguyên bỗng trở nên tư lự, trầm buồn. Trong bữa ăn tối tại nhà sàn, ông nói:

- Cái tình mẫu tử, phụ tử nó thiêng liêng lắm các con ạ. Điều ân hận lớn nhất của ta là để mất người mẹ đích thực của mình trong cuộc đời. Bây giờ các con còn trẻ, không nghĩ ngợi gì, nhưng khi có tuổi thì sẽ thấm. Ngày Tết các con nên ở bên cha mẹ và những người ruột thịt, đừng bao giờ bỏ nhà đi chơi xa như thế này. Mồng sáu phải đi làm, chỉ còn hai ngày nữa là hết Tết, các con nên về quê sớm, ở với người thân trong gia đình một ngày cũng quý. Sáng mai các con về nhé, về luôn đi...

 

8.

Sớm mồng bốn Tết, Ngân và My xuống thuyền rời đảo hoa đào, có chiếc thuyền mui của ông Nguyên đi theo hộ tống. Ông tiễn hai cô đến tận cảng Hương Lý, sau khi trả chiếc thuyền nan cho chủ tại ngôi làng nhỏ ven hồ. Trời hửng nắng. Những ngọn bạch đàn xanh mướt rì rào trong gió xuân.

Lúc giã từ, ông đưa cho My một mẩu giấy, bảo: “Con đăng tin này lên mạng giúp bố và nhờ người quen, bạn bè ở quê mách giùm. Từ lúc biết con quê ở Hà Nam, bố có linh cảm sẽ tìm ra được cô ấy.” Trong giấy là những chữ thô kệch nhưng rõ ràng từng dấu phẩy: Con Khuất Nguyên tìm mẹ là Hà Hải Nhi, sinh năm 1960, hiện ở Hà Nam, bàn chân có vết sẹo bỏng. Ba mươi năm trước sống ở xã Cảm Ân, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, trong xóm vùng hồ Thác Bà.

My vâng dạ và đưa tay lên vành mũ như người lính, chào bố nuôi. Ngân cũng đưa tay lên mũ lưỡi trai, mỉm cười, ngực nhô cao dưới làn áo rằn ri màu sẫm. Ông Nguyên dang tay ôm choàng lấy hai cô con gái, và cũng mỉm cười âu yếm khi thấy trên tóc các cô còn vương vài cánh hoa đào.

Ngân và My chia tay nhau tại bến xe khách thành phố Yên Bái. Ngân lên xe giữa trưa nắng về Thái Bình, còn My ở lại đợi chiếc xe khác về Hà Nam. Suốt buổi chiều trên xe, My áp mặt vào chiếc rèm, lặng lẽ khóc.

Cô chưa cho bố nuôi biết, quê ngoại của cô thuở xa xưa là một vùng quê trù phú nay đã chìm dưới lòng hồ Thác Bà. Mẹ của cô là Nhi, người đàn bà hiền thục dịu dàng, cả đời chăm chút nhường nhịn chồng con. Một ngày áp Tết ba năm trước, vào buổi chiều sương đi thắp hương tại khu mộ nhà chồng ven cánh đồng mọc nhiều dứa dại, bà đã chết bởi vết cắn hiểm của một con rắn hổ mang chì.

Cô tin rằng, linh hồn mẹ đã run rủi cho cô gặp ông Khuất Nguyên, người con kiếp trước của bà, giữa mùa xuân rực rỡ hoa đào trên đảo vắng.

Hà Nội, 5/2024
P.D.N
--------

1. Alain Bombard (1924-2005): bác sĩ, nhà sinh vật học, chính trị gia người Pháp. Ông đã thử nghiệm kĩ năng sinh tồn trên biển bằng việc chèo thuyền vượt Đại Tây Dương một mình vào năm 1952 mà không mang theo lương thực. Ông sống sót và về tới đích tại Caribe (Bắc Mĩ) sau 65 ngày với hành trình 4.400 km trên đại dương.

2. Cao điểm thứ tư (1968) là truyện vừa của Elena Iliina (Nga) kể về cuộc đời có thật của Gulia Koroliova, người con gái xô-viết anh hùng hi sinh trong chiến tranh vệ quốc. Khi còn là thiếu niên tham dự trại hè Artek tại biển Đen, trong đêm lửa trại trên đảo Ayu-Dag (núi Gấu), cô đã chạy vào rừng khuya một mình để tự thử thách lòng dũng cảm.

3. Mùa hè Italia là bài hát chính thức của Giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 14, do nhạc sĩ Ý Giorgio Moroder soạn nhạc, hai nghệ sĩ Ý là Edoardo Bennato (nam) và Gianna Nannini (nữ) viết lời và biểu diễn trực tiếp trong lễ khai mạc ngày 8-6-1990 tại Italia.

4. Bài thơ nổi tiếng Đề đô thành nam trang (Thơ đề ở ấp phía nam đô thành) của Thôi Hộ, đời Đường (Trung Quốc).

5. Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:
Hôm nay, năm ngoái, cửa cài
Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi
Mặt người chẳng biết đâu rồi
Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông

6. Bản dịch thơ của Phạm Duy Nghĩa.

 

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)