Thơ viết về đề tài người lính biển từ năm 1975 đến nay

Thứ Hai, 20/01/2025 00:55

. PHẠM KHÁNH DUY
 

Trong cảm thức của người Việt, biển đảo là phần máu thịt không thể tách rời của đất nước. Từ xưa đến nay, mỗi khi lãnh hải bị xâm phạm, dân tộc ta lại vùng lên đấu tranh bảo vệ và giữ vững chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Lịch sử hải phận Việt Nam có không ít trang được viết bằng những cuộc đấu tranh đẫm máu và nước mắt, đau thương mà hào hùng trong suốt dặm dài hình thành và xây dựng đất nước. Ngày nay, trong bối cảnh hoà bình, khi đất nước tập trung phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, vùng lãnh hải Việt Nam vẫn nằm trong tầm ngắm của các thế lực bành trướng bên ngoài. Do vậy, trong bất kì thời điểm nào, biển đảo vẫn luôn là vấn đề nóng bỏng, được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Đóng vai trò là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống, văn chương đã thực hiện sứ mệnh của mình đối với lịch sử khi ghi lại chân thật, xúc động công cuộc đấu tranh bảo vệ và giữ gìn chủ quyền biển đảo Việt Nam. Như một mạch ngầm bền bỉ, dòng văn chương về biển đảo Tổ quốc vẫn âm ỉ chảy trong lòng văn học dân tộc. Trong dòng mạch đó, thơ ca tạc dựng hình tượng người lính biển đã có những đóng góp đáng kể cho văn chương về biển đảo, mảnh ghép quan trọng của văn học Việt Nam đương đại.

Thơ viết về đề tài người lính biển từ năm 1975 đến nay đã vượt khỏi biên giới của một tác phẩm trữ tình, có sức gợi liên tưởng đến những hình ảnh ngoài đời thật, những sự kiện lịch sử trong công cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Ngay từ nhan đề bài thơ, các tác giả đã “phát tín hiệu” bằng những kí hiệu để kích thích trí tưởng tượng của người đọc, đưa người đọc đắm mình trong không gian của biển đảo Tổ quốc. Các kí hiệu xuất hiện với tần suất dày đặc trong nhan đề thơ của Trần Đăng Khoa: Cây bão tápđảo Nam Yết, Đồng đội tôi ở đảo Thuyền Chài, Hát về hòn đảo chìm, Cô tổng đài hải đảo, Lính đảo hát tình ca trên đảo, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn; Nguyễn Việt Chiến: Tổ quốc bên bờ biển cả, Tổ quốc nhìn từ biển; Nguyễn Khoa Điềm: Biển trước mặt - Biển, Tháng tư, Trường Sa; Đặng Huy Giang: Lời người lính ở đảo Sơn Ca, Một Trường Sa, mọi Trường Sa; Lê Thị Mây: Trái bàng vuông ở đảo Trường Sa, Nhịp tim kê chân đảo; Lê Ngân Vịnh: Bên góc sóng... Trong khuôn khổ của văn bản nghệ thuật, đặc biệt là văn bản thơ, tác giả không thể (mà thực chất là không cần thiết) nói ra tất thảy những thông điệp, quan điểm, bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình. Tất cả được nén chặt trong những kí hiệu. Vậy, kí hiệu chẳng những mở ra mã không gian để người đọc lần theo giải mã tác phẩm, mà còn nói hộ tiếng lòng người nghệ sĩ. Những kí hiệu thẩm mĩ như biển, đảo, sóng, cát, cây bàng vuông... hay tên gọi Trường Sa, Sinh Tồn, Nam Yết, Thuyền Chài... thiêng liêng trong tâm thức dân tộc đã hé mở không gian thơ, chắp cánh cho tình yêu, niềm tự hào về chủ quyền biển đảo, những trăn trở, thổn thức, đau đớn, xót xa của người cầm bút trước tình hình căng thẳng của biển đảo quê hương.

Trong giới hạn của một bài thơ cụ thể viết về đề tài người lính biển thường có hơn một kí hiệu (tồn tại bằng “ngôn ngữ thế quan”). Bên dưới lớp vỏ của ngôn ngữ (kí hiệu) là tầng tầng lớp lớp ý nghĩa. Các kí hiệu này lặp lại một cách có hệ thống và có dụng ý trong thơ về đề tài người lính biển của cùng tác giả hoặc khác tác giả. Trong đó, biển, đảo, sóng, gió, cát... là những kí hiệu phổ biến, dường như có mặt trong hầu hết các bài thơ viết về biển đảo, chẳng hạn: Biển dẫu yên mà lòng ta lại động/ Lắng tin xa những cơn bão chập chờn (Thao thức Trường Sa, Nguyễn Thế Kỷ); Biển mùa này sóng dữ phía Hoàng Sa/ Các con mẹ vẫn ngày đêm bám biển (Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra, Nguyễn Việt Chiến); Sóng lớp lớp mây bay/ Người lớp lớp bồng súng canh biển/ Gió từ nhà giàn (Gió nhà giàn, Nguyễn Quang Hưng); Cuối cùng/ còn biển/ còn trời/ gần gũi là sóng/ xa vời là mây (Một Trường Sa, mọi Trường Sa, Đặng Huy Giang); Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình/ Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá (Tổ quốc gọi tên, Nguyễn Phan Quế Mai)... Với những kí hiệu này, các tác giả đã mở ra trước mắt người đọc khung cảnh của biển đảo vừa mênh mông, kì vĩ, vừa khắc nghiệt, nguy hiểm, đầy thử thách. Một vài trường hợp, sóng, gió, bão, giông đã vượt ra khỏi lớp nghĩa hiện tượng tự nhiên để hàm chỉ tình hình căng thẳng, gay cấn đang diễn ra trên biển. Chẳng hạn như: Sóng chẳng bình yên dẫn lối những con tàu/ Sóng quặn đỏ máu những người đã mất/ Sóng cuồn cuộn từ Nam chí Bắc (Tổ quốc gọi tên) trong thơ Nguyễn Phan Quế Mai hay Thương Cồn Cỏ gối đầu trên sóng dữ/ Thương Hòn Mê bão tố phía âm u (Tổ quốc nhìn từ biển) của Nguyễn Việt Chiến. Điều này có thể được khẳng định bởi trong tư duy của người Việt, sóng, gió, bão, giông thường tượng trưng cho những biến động trong cuộc đời, biến động của đất nước.

Cây bàng vuông, phong ba, bão táp, san hô, ốc kim khôi, chim hải âu... trở thành linh hồn của Hoàng Sa, Trường Sa, chúng đi vào thơ ca với tư cách các kí hiệu, góp phần đưa không khí, hồn cốt của đảo xa đến gần với người đọc hơn. Cây phong ba với sức sống mãnh liệt trong môi trường khắc nghiệt, đầy thách thức trong thơ Nguyễn Thế Kỷ: Trường Sa nắng nỏ, bão giông/ Cây phong ba với thành đồng lòng ta (Trường Sa); Trần Đăng Khoa: Thân cây sao mà mềm mại/ Lá cây sao vẫn mượt mà/ Mỗi năm hàng trăm cơn bão/ Trên mình cây đã đi qua (Cây phong ba đảo Nam Yết); Lê Huy Mậu: Cây là cây phong ba, cây bão táp/ Người chỉ là người bằng thịt bằng da (Nắng nóng Trường Sa)... Cây bàng vuông vượt qua sự cỗi cằn, vươn lên phủ xanh đảo đá trong thơ Lê Thị Kim: Trái bàng vuông ơi trái bàng xanh/ Khắp các đảo mọc như hàng lính/ Sóng điểm danh nao nức lá cành (Trái bàng vuông ở đảo Trường Sa)... Cánh chim hải âu - một kí hiệu thẩm mĩ gắn với khát vọng hoà bình, ước mơ về những điều tốt đẹp trong thơ Nguyễn Trọng Tạo: Viên đá trời rơi xuống biển xanh/ bay lên/ hải âu loáng nắng (Hải âu); Lê Thị Kim: Những loài chim biển hải âu/ Tưởng người là loài chim đâu mới về (Gần lắm Trường Sa); Lữ Mai: bọn anh vẫn nằm nghe sóng vỗ/ mắt hải âu tao tác buổi động trời (Ngang qua bình minh)... Vỏ sò, vỏ ốc - những sự vật tưởng chừng bé nhỏ, dễ lãng quên lại trở thành kí hiệu gợi nhớ gợi thương trong thơ viết về đề tài người lính biển. Vỏ sò, vỏ ốc mang linh hồn của biển cả vào thơ Nguyễn Đình Xuân: Sóng biển cuộn trăng táp bờ/ Lăn tăn vỏ sò, vỏ ốc (Trăng ở Trường Sa). Ốc kim khôi trở thành kỉ vật minh chứng cho tình yêu của người lính nhà giàn trong thơ Lữ Mai: còn em biết đây loài ốc gì không/ ốc kim khôi đấy/ anh sẽ kể em nghe chuyện ngày xưa cha mẹ/ ẩn dụ kim khôi gió xối ngang trời (Ngang qua bình minh)...

Trong tâm thức của người Việt, Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem là tổ tiên, gắn với câu chuyện về cái bọc trăm trứng để sinh thành ra cộng đồng, dân tộc. Theo thời gian, huyền thoại này vẫn còn giữ nguyên giá trị, vô số lần sống lại trong các tác phẩm văn học, nhất là trong văn học hiện đại. Nhìn thơ viết về người lính biển một cách có hệ thống, chúng tôi phát hiện, rất nhiều lần huyền thoại về Lạc Long Quân và Âu Cơ xuất hiện với tư cách là mã - một dạng của kí hiệu. Nhìn Tổ quốc bên bờ sóng từ phía biển, đảo - tiền tiêu quân sự của đất nước, Nguyễn Việt Chiến đã nhìn thấu suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, kết nối giữa xưa và nay, giữa quá khứ và hiện tại. Trong dòng chảy của lịch sử, huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ chiếm giữ vị trí quan trọng trong tâm thức dân tộc, chi phối tư duy thơ Nguyễn Việt Chiến: Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt của Hoàng Sa/ Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa (Tổ quốc nhìn từ biển). Trong Tổ quốc nhìn từ biển, huyền thoại này được lặp lại ba lần, gắn với hai dấu mốc quan trọng của đất nước: thời kì hình thành (Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa) và giai đoạn biển Đông “chập chờn bóng giặc” (Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển/ Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng; Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo/ Lạc Long Cha nay chưa thấy trở về). Trong những dấu mốc đó, Trường Sa, Hoàng Sa và phần biển đảo máu thịt của đất nước vẫn luôn có mặt trong ý niệm của mỗi người về đất nước.

Giữa Trường Sa mùa “biển động”, mẹ Âu Cơ trong bài thơ Tiếng chuông chùa trên đảo Trường Sa của N.H. trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc của con người: Quả chuông đồng trên đảo Trường Sa Lớn/ Gióng lên mùa biển động/ Mẹ Âu Cơ dõi mắt trông chờ/ Mong bình yên Tổ quốc. Trong bài thơ Lời ru mẹ Âu Cơ gửi đảo, Nguyễn Thế Kiên đã ẩn mình để cho chủ thể trữ tình là mẹ Âu Cơ bộc lộ niềm xót xa trước tình hình biển Đông căng thẳng, sôi sục, đồng thời thể hiện khát vọng, quyết tâm giữ vững chủ quyền đất nước, một tấc đất, một tấc biển cũng không ai có thể cắt rời: Sóng ngầm vạn kiếp chưa thôi/ Mẹ ru đá ngủ trong lời nước non/ À ơi mấy cuộc vuông tròn/ Máu cha còn gửi cội nguồn đất đai. Bài thơ nhuốm màu sắc huyền thoại Cổ tích và biển đảo của Tạ Văn Sỹ khẳng định từ ngàn xưa, ông cha ta đã ý thức rất cao trong việc giữ gìn biển đảo quê hương: Biển đảo quê mình có tự thuở hồng hoang/ Khi mẹ Âu Cơ tiễn bố Lạc Long Quân về lại biển/ Mỗi bước cha đi một lòng tâm nguyện/ Đưa đàn con vượt sóng dữ trùng dương. Năm 2013, 2014 là giai đoạn không thể nào quên trong lịch sử biển đảo Tổ quốc. Hoà trong không khí sóng (lòng) cuồn cuộn từ Nam chí Bắc, Hạnh Vân đã viết bài thơ Nói với mẹ Âu Cơ bằng giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, thiết tha, trìu mến để giãi bày những ẩn ức trước hoàn cảnh đầy biến động của vùng biển Tổ quốc: Tạm biệt mẹ con trở về với biển/ Thủ thỉ cha nghe rừng sắp cạn rồi/ Tiếng sóng vỗ như lòng cha thao thức/ Thương mẹ hao mòn ở phía xa xôi/ Cởi lo toan con hoà vào biển mặn/ Cha ru con bằng nhịp sóng dập dềnh/ Chỉ mẹ hiểu lòng cha đang quặn thắt/ Tàu lạ rập rình, ngọn sóng cũng lênh đênh. Có vẻ như, trong thời điểm khó khăn đó, Âu Cơ và Lạc Long Quân trở thành những “đức tin” để các tác giả nương tựa vào. Mượn xưa để nói nay, lấy quá khứ làm điểm tựa cho hiện tại là hiện tượng dễ bắt gặp trong thơ ca viết về biển đảo.

Lịch sử biển đảo Việt Nam là những trang viết đẫm máu và nước mắt. Trong đó, hải chiến Hoàng Sa và Trường Sa là những cuộc đối đầu khốc liệt giữa ta và địch để khẳng định chủ quyền biển đảo, biết bao người đã vĩnh viễn nằm lại dưới biển sâu, máu của họ hoà vào biển mặn như một lời thề gắn bó trọn đời với hải phận thiêng liêng. Để dựng lại không khí lịch sử, từ điểm nhìn hiện tại hướng về quá khứ, các tác giả đã chọn lọc và mã hoá chiến tranh thành những kí hiệu cùng nằm trong một hệ thống, gọi chung là mã lịch sử.

Cuộc hải chiến Gạc Ma đã được Thanh Thảo lồng ghép trong lời kể của chủ thể trữ tình với một công dân nước Việt, đó cũng là lời nhắn nhủ của tiền nhân với hậu thế, không bao giờ được lãng quên lịch sử dân tộc: Gạc Ma Gạc Ma/ hãy kể cho con cháu anh điều này:/ có những người lính đảo đã chết theo vòng tròn/ tay họ giăng ra và siết chặt tay nhau/ như một tràng hoa biển (Chân sóng). Đó cũng là lời thề vang vọng trong thơ Lê Huy Mậu: Từ đảo Cô Lin/ Chúng tôi nhìn qua đảo Gạc Ma/.../ Chúng tôi neo tàu cách Gạc Ma chừng hai hải lí/ Trước anh linh 64 chiến sĩ đã vì nước hi sinh/ Chúng tôi thề cùng các anh bảo vệ chủ quyền biển đảo/ Dù giặc mạnh, giặc đông/ Nhưng cả nước đồng lòng/ Sẽ chẳng có kẻ thù nào mà chúng ta không thắng nổi. Trong trường ca Biển mặn, ở trường đoạn Hải chiến, mã lịch sử đã giúp Nguyễn Trọng Tạo tái hiện thành công thời khắc căng thẳng, bất chấp họng súng quân thù, Hải quân Việt Nam đoàn kết giữ vững trên tay lá cờ Tổ quốc trên đảo đá Gạc Ma: Cờ Việt Nam bay trên đảo Gạc Ma/ Như ngọn lửa đỏ tươi giữa mùa rét mướt/ Những chiến sĩ công binh tôn cao cờ Tổ quốc/ Có biết chăng lũ giặc đã tràn lên/ Chúng tràn lên từ những chiếc thuyền nhôm/ Lăm le súng và mắt trừng quỷ dữ/ Chúng bắt ta hạ xuống cây cờ đỏ/ Cờ chủ quyền trên đảo Việt Nam ta. Những kí hiệu trên cũng được nhắc đến trong không gian đậm màu sử thi, không gian bi hùng của cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển đảo qua trường ca Ngang qua bình minh của Lữ Mai: lạnh tanh bầy ác quỷ/ chúng xả súng đâm lê/ mỗi chúng tôi là một lá cờ/ vây quanh đảo nhỏ. Và phẩm chất anh dũng, kiên trung của người lính biển càng hiện ra rõ hơn khi Nguyễn Việt Chiến soi chiếu từ bức chân dung của những người đã lấy thân mình đỡ đạn để giữ đảo: Khi hi sinh ở đảo đá Gạc Ma/ Các anh lấy ngực mình làm lá chắn/ Để một lần Tổ quốc được sinh ra/ Máu các anh thấm vào lòng biển thẳm/…/ Cờ Tổ quốc phất lên trong mưa đạn/ Phút cuối cùng đảo đá hoá biên cương/ Anh đã lấy thân mình làm cột mốc/ Chặn quân thù trên biển đảo quê hương (Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra). Gặp nhau ở mã lịch sử, hầu như đa số những bài thơ về biển đảo đều sử dụng thủ pháp lí tưởng hoá để bất tử hình tượng người lính biển.

Thoát khỏi phạm vi của kí hiệu, người lính biển đã trở thành biểu tượng lớn trong thơ từ năm 1975 đến nay. Giờ đây, người lính biển không chỉ là hình tượng mà trở thành một biểu tượng bởi tính phổ quát của biểu tượng, từ sự tập hợp của những kí hiệu ám chỉ. Hầu như, trong các bài thơ về biển đảo không thể thiếu bóng dáng của người lính đảo. Trong cảm thức của dân tộc, người lính nói chung và người lính hải quân nói riêng là biểu tượng đẹp, uy nghiêm, được kết tinh từ tinh hoa, khí phách của dân tộc, một biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước. Những kí hiệu như bộ quân phục, cầm súng, ánh mắt, tiếng hát... đã kết nối với nhau hình thành nên biểu tượng người lính biển. Có thể bắt gặp điều đó trong trường đoạn Lính biển (trường ca Biển mặn) của Nguyễn Trọng Tạo: Mặc bộ quân phục hải quân màu xanh/ và trắng/ Như sóng biển hai màu/ Tôi thành lính biển; Chẳng lẽ anh yêu đất cằn và đá cỗi/ nắng cháy da và rét buốt xương/ gió xé rách áo quần/ mưa ném nghiêng mũ cối. Biểu tượng người lính biển trong thơ Nguyễn Trọng Tạo có mối quan hệ mật thiết với hệ thống kí hiệu về biển, đảo (sóng, cát, biển, đất cằn, đá cỗi, nắng, gió...), qua đó, nhà thơ khắc hoạ cuộc sống vất vả, gian khổ của người lính trên vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc. Kí hiệu “áo vải” vốn gắn người anh hùng áo vải trong văn học trung đại đã được Nguyễn Hữu Quý sử dụng như một kí hiệu gắn kết với các kí hiệu khác, xê dịch thành biểu tượng người lính biển cảm tử hi sinh trong cuộc hải chiến bảo vệ Hoàng Sa: bão nổi/ sóng gầm/ tả tơi/ ngực biển/ dân binh/ áo vải/ chân không/ lựa gió/ cắt sóng/ cặp bãi cát vàng/ đặt/ mốc non sông/ Việt (Gọi Hoàng Sa). Biểu tượng người lính biển trong thơ Nguyễn Hữu Quý thấp thoáng dáng dấp của người anh hùng thuở xưa, tầm vóc sánh ngang cùng biển trời đất nước. Giang Nam - nhà thơ của xứ “rừng trầm, biển yến” đã viết về Trường Sa - huyện đảo quê mình bằng những vần thơ ngợi ca, tràn đầy tình yêu và niềm kiêu hãnh. Từ những kí hiệu như “đứng dưới cờ bay”, “như cây phong ba”, “bàn tay gân guốc”..., Giang Nam đã xây dựng thành công biểu tượng người lính biển với lòng kiên định, ý chí sắt đá, tinh thần vượt khó và tình yêu biển đảo, yêu Tổ quốc sắt son: Những người đã ra đi không khuất phục/ Những người đang đứng dưới cờ bay/ Song Tử, Trường Sa, Sinh Tồn, Nam Yết/ Như cây phong ba ngàn thuở bám đất này (Huyện đảo quê hương). Để làm tăng tính thiêng liêng của biểu tượng, các tác giả đã chọn cách bất tử hoá người lính biển, đặc biệt trong khoảnh khắc hi sinh: sáu mươi tư người lính ngã xuống/ hai sáu năm rồi không nhắm mắt/ hai sáu năm rồi/ máu chảy giữa lòng ta (Trường Sa, Đặng Huy Giang), Máu các anh thấm vào lòng biển thẳm (Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra, Nguyễn Việt Chiến)... Đó là những dòng thơ được viết bằng cảm hứng hướng về lịch sử, các tác giả đã dựng nên trong thơ bức tượng đài bi tráng của người lính biển trong những cuộc chiến đẫm máu trên biển Đông với vẻ đẹp hào hùng, khí thế oai phong, lẫm liệt ngay cả trong giây phút ra đi. Có thể nói, với người lính biển, Hoàng Sa, Trường Sa và hải phận của Tổ quốc chính là lẽ sống: Chúng tôi - một phần máu thịt của Trường Sa (Lời người lính ở đảo Sơn Ca, Đặng Huy Giang). Họ đã kế thừa xuất sắc sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo mà tiền nhân đã tạo dựng. Bởi thế, biểu tượng người lính biển không chỉ đẹp trong văn chương nghệ thuật mà còn sáng ngời trong cuộc sống đời thường, in sâu vào lòng nhân dân.

Thơ ca nói riêng, văn học viết về biển đảo nói chung đã phát huy vai trò của một ngôn sứ/ một diễn ngôn nghệ thuật trong việc khẳng định chủ quyền biển đảo. Các nhà thơ đã tiếp nối và làm phong phú thêm dòng thơ viết về biển đảo trong dòng chảy thơ ca dân tộc, góp phần nâng cao tình yêu và ý thức bảo vệ vùng trời - vùng biển quê hương.

P.K.D

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)