Hai hội thảo “Phát triển công nghiệp điện ảnh trong kỉ nguyên mới” và “Thực trạng và giải pháp thu hút đoàn làm phim đến các địa phương” đã trở thành tâm điểm thu hút giới chuyên môn tại Liên hoan phim (LHP) Việt Nam Lần thứ 24 diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh.
Tại hai hội thảo, câu chuyện điện ảnh không còn dừng lại ở phạm vi tác phẩm hay đạo diễn, mà mở rộng thành một chủ đề lớn hơn là làm thế nào để Việt Nam hình thành một ngành công nghiệp điện ảnh đúng nghĩa, nơi sáng tạo, công nghệ, thị trường và chính sách cùng vận hành đồng bộ?
Cần một tư duy phát triển mới để không “lỡ hẹn”
Sự xuất hiện đồng thời của hai hội thảo cho thấy bức tranh điện ảnh Việt Nam đã được đặt trong một logic phát triển mới, từ tầm nhìn quốc gia đến hành động cụ thể tại địa phương. Ở tầm vĩ mô, các diễn giả như Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông, Phó Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh Trần Thị Diệu Thúy, TS. Trần Thị Phương Lan (Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương), PGS.TS. Bùi Hoài Sơn (Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa Xã hội của Quốc hội), Cục trưởng Cục Điện ảnh Đặng Trần Cường, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Thanh Thúy, đạo diễn Đặng Thái Huyền, đạo diễn Victor Vũ… bàn về chính sách, hạ tầng, chuyển đổi số, năng lực cạnh tranh và quyền lực mềm của điện ảnh Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Ở tầm vi mô, những vướng mắc tưởng nhỏ nhưng lại mang tính quyết định, từ thủ tục cấp phép, thiếu dịch vụ hỗ trợ phim trường, đến việc chưa hình thành các “Film Office” (Văn phòng xúc tiến điện ảnh) địa phương, được chỉ ra như những nguyên nhân khiến Việt Nam lỡ hẹn với nhiều cơ hội thu hút các đoàn làm phim lớn.

Các đại biểu tham gia Hội thảo Phát triển ông nghiệp Điện ảnh Việt Nam trong kỉ nguyên mới. Ảnh: BTC
Từ góc nhìn của cả hai hội thảo, có thể thấy ngành điện ảnh Việt Nam đang đứng trước một ngã rẽ công nghiệp hóa. Những câu hỏi mới, đòi hỏi cách tiếp cận mới, đang xuất hiện ngày càng dày đặc như điện ảnh có thể trở thành ngành kinh tế công nghiệp sáng tạo hay vẫn chỉ là lĩnh vực văn hóa? Làm sao để các địa phương, từ Sa Pa đến Ninh Bình, từ Huế đến Đà Lạt, từ Nha Trang đến Cần Thơ, trở thành những phim trường thân thiện? Và những điều kiện nào để điện ảnh Việt Nam bước ra thị trường khu vực, trở thành “những người kể câu chuyện của quốc gia”. Những vấn đề này càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh ngày 14/11/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã kí quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó điện ảnh phấn đấu tỉ lệ tăng trưởng trung bình đạt 10,13%/năm, doanh thu đạt khoảng 12,5 nghìn tỉ đồng (tương đương 500 triệu USD) là mục tiêu đến năm 2030.
Tại hội thảo “Phát triển công nghiệp điện ảnh trong kỉ nguyên mới”, các diễn giả đến từ các cơ quan hoạch định chính sách, giới nghiên cứu và các đơn vị sản xuất phim đã thống nhất nhìn nhận điện ảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn cần một tư duy phát triển hoàn toàn khác. Nếu như trước đây điện ảnh chủ yếu được nhìn như một ngành sáng tạo mang tính nghệ thuật, thì nay cấu trúc thị trường, thị hiếu khán giả, công nghệ sản xuất, phát hành và sức cạnh tranh khu vực buộc chúng ta phải định vị lại điện ảnh như một ngành công nghiệp văn hóa, vận hành theo cơ chế kinh tế của thời đại số.
Theo TS. Trần Thị Phương Lan và PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, một chiến lược công nghiệp điện ảnh phải bắt đầu từ hệ thống chính sách đồng bộ như Luật Điện ảnh, cơ chế đầu tư hợp tác công - tư, vai trò của địa phương, bảo hộ phim nội địa, cũng như các chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, thực tế đang cho thấy những chính sách hiện hành vẫn chậm hơn tốc độ phát triển của thị trường điện ảnh, từ quy trình kiểm duyệt, hoạt động phân phối, phát hành, đến việc hỗ trợ các mô hình studio, kĩ xảo, công nghệ hậu kì.

NSND Nguyễn Thị Thanh Thúy - Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hồ Chí Minh phát biểu tại hội thảo. Ảnh: BTC
Điều được nhấn mạnh nhiều nhất là Việt Nam cần một chiến lược tầm quốc gia, bao gồm nhiều khâu như quy hoạch hạ tầng trường quay, hệ thống dữ liệu ngành điện ảnh (big data), chính sách thu hút đầu tư và các trung tâm đào tạo nhân lực chuyên môn sâu. Những yếu tố này thiếu vắng lâu nay khiến điện ảnh Việt cho dù có tiềm năng nhưng chưa tạo được điểm bứt phá.
Chuyển đổi số cũng được kì vọng từ công cụ đơn thuần đến trở thành nền tảng tăng trưởng. Kỉ nguyên số đang làm thay đổi toàn bộ chuỗi giá trị điện ảnh, bao gồm sáng tác - sản xuất - hậu kì - phát hành - quảng bá. Công nghệ dựng phim, kĩ xảo mới, công nghệ âm thanh, mô hình sản xuất ảo (virtual production) trở thành tiêu chuẩn mới, trong khi thị trường đều đòi hỏi có dữ liệu người xem chính xác để tối ưu chiến lược phát hành. Nhiều quan điểm cho rằng điện ảnh Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh nếu nhanh chóng đầu tư vào công nghệ, đặc biệt là hạ tầng kĩ thuật số cho sản xuất và quản trị thị trường. Điều này không chỉ giúp nâng chất lượng phim mà còn rút ngắn thời gian sản xuất, giảm chi phí và tăng khả năng xuất khẩu nội dung.
Vietnam Film Office có giải quyết nút thắt tại các tỉnh?
Nếu hội thảo về công nghiệp điện ảnh trong kỉ nguyên mới đặt ra tầm nhìn chiến lược cấp quốc gia, thì hội thảo về thực trạng và giải pháp thu hút đoàn làm phim đến các địa phương chỉ ra những điểm nghẽn vi mô, nơi tầm nhìn ấy phải được chuyển hóa thành thực tiễn. Bởi lẽ, dù có chiến lược công nghiệp hóa hiện đại đến đâu, điện ảnh vẫn cần những địa phương đủ năng lực để tiếp nhận, phục vụ và đồng hành cùng các đoàn làm phim. Và chính tại mắt xích địa phương, hệ sinh thái điện ảnh Việt Nam đang thiếu hụt nhiều nhất.
Những năm gần đây, Việt Nam từng trở thành điểm đến của các dự án quốc tế như “Kong: Skull Island” (Kong: Đảo đầu lâu), “A Tourist’s Guide to Love” (Cẩm nang tình yêu của du khách), “Truy tìm dấu vết”, hay các đoàn phim quảng cáo của Nhật Bản và Hàn Quốc... Tuy nhiên, số dự án lớn mang tính ổn định vẫn chưa nhiều. Các diễn giả phân tích rằng Việt Nam có nguồn tài nguyên bối cảnh phong phú với núi rừng, sông hồ, biển đảo, đô thị hiện đại, kiến trúc thuộc địa, di sản văn hóa, nhưng chưa sở hữu hệ thống dịch vụ phim đủ chuyên nghiệp để cạnh tranh với các nước lân cận trong khu vực như Thái Lan, Malaysia hay Philippines. Điểm yếu lớn nhất nằm ở chỗ nhiều địa phương vẫn nhìn điện ảnh như một hoạt động quảng bá đơn lẻ, chứ chưa xem đây là ngành công nghiệp liên quan đến du lịch, dịch vụ, truyền thông, ẩm thực, lưu trú, logistics (kho vận).
Tại hội thảo, nhiều nhà sản xuất và các doanh nghiệp dịch vụ phim khẳng định rằng điều kiện tiên quyết để thu hút đoàn phim quốc tế là phải có Film Office (Văn phòng xúc tiến điện ảnh) là mô hình phổ biến tại châu Á và thế giới. Film Office đóng vai trò “đặc phái viên” của địa phương với những công việc như cung cấp thông tin bối cảnh, hỗ trợ xin phép, kết nối nhân sự, đảm bảo an ninh hiện trường, xử lí yêu cầu đặc thù của đoàn phim. Trong khi đó, các tỉnh thành Việt Nam hiện nay không có mô hình này. Đoàn phim phải làm việc qua nhiều cơ quan như các sở ban ngành văn hóa, du lịch, công an, môi trường, địa phương cấp tỉnh/xã/phường…, khiến thời gian xin phép kéo dài, dễ nảy sinh hiểu lầm hoặc phát sinh chi phí. Hội thảo đề nghị xây dựng hệ thống Vietnam Film Office cấp quốc gia, có mạng lưới kết nối xuống địa phương, hoạt động theo cơ chế một cửa.

Các đại biểu trao đổi tại Hội thảo "Thực trạng và giải pháp thu hút các đoàn làm phim đến địa phương". Ảnh: BTC
Một điểm được nhắc tới nhiều là cơ chế hoàn thuế, vốn là chìa khóa giúp Thái Lan trở thành trung tâm sản xuất phim quốc tế của Đông Nam Á. Thái Lan hoàn thuế 15-20% chi phí sản xuất cho dự án đủ tiêu chuẩn; Malaysia hỗ trợ 30%; Philippines 20-25%. Việt Nam hiện chưa có chính sách tương tự. Đây là lí do khiến nhiều dự án quốc tế chọn quay tại Thái Lan, dù bối cảnh họ cần phù hợp ở Việt Nam.
Nhiều đạo diễn và nhà sản xuất chia sẻ rằng họ khó tiếp cận dữ liệu bối cảnh, vì Việt Nam chưa có bản đồ bối cảnh điện ảnh (film location database) quy mô quốc gia. Mỗi tỉnh thành đều có tiềm năng khác nhau, nhưng thông tin thường phân tán, thiếu cập nhật hoặc không có bản quyền hình ảnh chất lượng cao. Ngoài ra, nhân lực hỗ trợ phim trường ở địa phương như hỗ trợ hậu cần, dịch vụ ánh sáng, an ninh, makeup, phục trang… còn ít và thiếu đào tạo bài bản. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và chất lượng sản xuất.
Hội thảo cũng chỉ ra rằng các địa phương có thể hưởng lợi rất lớn từ du khách đến thăm các địa điểm từng xuất hiện trong phim. Ninh Bình và Quảng Bình từng hưởng hiệu ứng truyền thông mạnh từ bộ phim “Kong: Skull Island”; Đà Nẵng và Hội An từng tạo xu hướng từ những quảng cáo của quốc tế. Tuy nhiên, các địa phương chưa có chiến lược dài hạn để biến bối cảnh phim thành sản phẩm du lịch. Điều này đặt ra yêu cầu phối hợp giữa các cơ quan thuộc các lĩnh vực như văn hóa, du lịch, truyền thông, doanh nghiệp để tạo chuỗi giá trị mới sau khi đoàn phim rời đi. Cũng tại hội thảo này, TP. Hồ Chí Minh đã ra mắt Cẩm nang "TP.HCM – Điểm đến sản xuất phim", một tài liệu hướng dẫn dành cho các đoàn phim trong và ngoài nước. Đây được xem là bước đi đầu tiên của một Film Office theo chuẩn quốc tế. Một số địa phương khác như Đà Lạt, Huế, Quảng Ninh, Cần Thơ cũng được đề nghị xây dựng mô hình tương tự.
Chỉ có thể phát triển khi vận hành như một hệ sinh thái
Hai hội thảo cũng chỉ ra một số vấn đề cơ bản mà ngành điện ảnh đã đối mặt trong nhiều năm qua như thiếu hạ tầng trường quay quy mô lớn, khiến nhiều đoàn phim phải ra nước ngoài dù bối cảnh Việt Nam phong phú; Lệ thuộc hệ thống phát hành nước ngoài, gây áp lực cho phim nội địa trong việc phân phối suất chiếu và quảng bá; Thiếu nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các lĩnh vực như kĩ xảo, thiết kế âm thanh, vận hành thiết bị hiện trường, quản trị trường quay; Thiếu dữ liệu thị trường minh bạch, khiến việc hoạch định phát hành, đầu tư và đánh giá hiệu quả gặp nhiều hạn chế; Chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp điện ảnh còn mỏng, không cạnh tranh được với Thái Lan, Hàn Quốc hay Malaysia.
Các nút thắt này liên quan chặt chẽ với việc thu hút đoàn phim đến địa phương, cho thấy hệ sinh thái điện ảnh Việt Nam đang thiếu sự kết nối giữa trung ương, địa phương với doanh nghiệp làm phim.

Quang cảnh chung Hội thảo "Thực trạng và giải pháp thu hút các đoàn làm phim đến địa phương". Ảnh:
Từ những đánh giá tại hai hội thảo, có thể thấy sự chuyển dịch tư duy đang diễn ra khi mà điện ảnh không chỉ là một bộ môn nghệ thuật, mà còn là một ngành công nghiệp sáng tạo đóng góp vào GDP, một công cụ quảng bá hình ảnh quốc gia, thúc đẩy du lịch và tạo chuỗi giá trị kinh tế rộng lớn. Do vậy điện ảnh Việt Nam muốn bứt phá phải đặt mục tiêu như xây dựng thương hiệu phim Việt trên thị trường khu vực; Tạo ra hệ sinh thái sản xuất và phát hành vững mạnh; Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn; Biến chuyển đổi số thành chiến lược chứ không chỉ là công cụ.
Nhìn lại hai hội thảo quan trọng trong khuôn khổ Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 24, có thể thấy rằng điện ảnh nước ta đang ở thời điểm chuyển mình mạnh mẽ, vừa đối diện những thách thức nội tại kéo dài nhiều năm, vừa đứng trước những cơ hội chưa từng có từ chuyển đổi số và sự lớn lên của các ngành công nghiệp sáng tạo. Từ câu chuyện chiến lược quốc gia đến những vướng mắc ở địa phương, tất cả đều cho thấy một thực tế căn bản: Điện ảnh Việt Nam chỉ có thể phát triển khi vận hành như một hệ sinh thái, trong đó mỗi thành phần gồm chính sách, doanh nghiệp, địa phương, công nghệ, nhân lực đều phải chuyển động đồng bộ và nuôi dưỡng lẫn nhau.
HÀ THANH VÂN
VNQD