Dòng chảy

Nhà văn, nhà thơ làm báo thời kì “gạch nối”

Thứ Bảy, 21/06/2025 00:30

Sau năm 1975, trong khí thế chiến thắng, đất nước ta bước vào giai đoạn mới tràn trề lạc quan, khát vọng phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tế chúng ta đã gặp phải muôn vàn khó khăn bởi hai cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở phía Bắc, Tây Nam và cả sự duy ý chí trong xây dựng nền kinh tế quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, sau đó là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô, kết thúc chiến tranh lạnh, tiền đề cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh ấy, xuất hiện một thế hệ các nhà văn, nhà thơ đồng thời cũng là nhà báo, như cách nói của nhà văn Sương Nguyệt Minh: thế hệ gạch nối - thở cùng hơi thở những thay đổi ấy.

Nhân kỉ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025), VNQĐ có cuộc trò chuyện với Đại tá nhà văn Sương Nguyệt Minh, nguyên Trưởng ban Văn xuôi Tạp chí Văn nghệ Quân đội và Đại tá nhà thơ Mai Nam Thắng, nguyên Trưởng phòng Báo Quân đội nhân dân cuối tuần.

- Sau năm 1975 xuất hiện một thế hệ các nhà văn, nhà thơ làm báo, như nhà văn Sương Nguyệt Minh định nghĩa: Thế hệ gạch nối, một đầu gối vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, đầu kia là những ngỡ ngàng, thậm chí hoang mang trước những thay đổi của thế giới ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình đất nước. Các ông có thể chia sẻ một chút về thế hệ của mình?

Đại tá nhà thơ Mai Nam Thắng

+ Nhà thơ Mai Nam Thắng: Thế hệ “gạch nối” chúng tôi, có thể nói, vừa may mắn, vừa đáng tiếc. “May mắn” vì lúc bé chúng tôi ít nhiều “được” trải nghiệm chiến tranh, nhưng đến tuổi cầm súng thì chiến tranh vừa kết thúc. Đầu năm 1975, bạn bè cùng lớp 10 phổ thông của tôi (hệ 10/10) nhiều người được “đặc cách” nhập ngũ, vì mới 17 tuổi và vừa bước vào học kì 2 nên được công nhận tốt nghiệp cấp 3 phổ thông. Nhà thơ Trần Đăng Khoa thuộc lứa nhập ngũ đặc cách này. Tuy nhiên lứa này sau 3 tháng huấn luyện tân binh cũng vừa lúc Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc. “Đáng tiếc” là vừa hưởng hòa bình chưa được bao lâu, chúng tôi lại phải cầm súng, nhưng kẻ thù là một đối tượng khác, đời sống chính trị, xã hội, quan hệ quốc tế... cũng khác với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trước đây. Tiếp đó là công cuộc Đổi mới, ai nấy hồ hởi “xé rào, bung ra” nhưng lung tung lộn xộn, sai - đúng không rõ ràng; các khái niệm về “kinh tế thị trường”, “sản xuất hàng hóa”... cứ ào ào vậy thôi. Một vấn đề như “đảng viên làm kinh tế tư nhân” cũng phải mất 3 khóa Đại hội Đảng toàn quốc mới chính danh được. Tóm lại, thế hệ chúng tôi đúng như hình tượng “gạch nối”: một đầu kinh nghiệm và vốn sống không nhiều, một đầu hình hài và khái niệm chưa rõ. Nhà văn, nhà báo thế hệ gạch nối, trong giai đoạn đầu vào nghề viết rất khó khăn...

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Như Nhà thơ Mai Nam Thắng đã đề cập, chúng tôi viết văn, viết báo trưởng thành trong thời kì cái cũ chưa qua, cái mới vừa đến. Có những cái cũ đến cũ mòn, có những cái mới mới đến lạ lẫm, ngạc nhiên. Có người điềm tĩnh, người hoang mang, nhưng cuối cùng vẫn phải nỗ lực, điều chỉnh và “nhận đường” tìm ra lối đi riêng trong sáng tác của mình… Hầu hết có trình độ đại học, nhưng số người thạo ngoại ngữ thì hiếm hoi, rất may đất nước mở cửa, kinh tế thị trường tràn vào mọi nhà, chúng tôi tiếp thu được cái mới mẻ, khác lạ nào đó của nhân loại qua dịch thuật, và các phương tiện nghe nhìn cùng với lao động nhà văn đã tạo nên một thế hệ tự tin, sáng tạo đa dạng, phong phú, và sinh động.

- Vâng, văn chương và báo chí luôn là tấm gương phản chiếu xã hội. Những biến cố của thế giới, thay đổi của đất nước sau năm 1975 tác động thế nào đến quá trình viết văn, làm báo của các ông?

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Rất nhiều biến cố thời đại khiến tôi và nhiều người viết khác nhận ra mình đã và đang sống khác, cho nên không thể viết như cũ, không thể đi lại vết chân những người trước đã đi. Viết hay bao giờ cũng khó, nhưng trước hết phải nghĩ khác, viết khác.

+ Nhà thơ Mai Nam Thắng: Cuối năm 1988 tôi về nhận công tác ở Báo QĐND lúc 30 tuổi, chưa vợ, được phân một phòng nghỉ ở nhà số 8 phố Lý Nam Đế. Đó là một ngôi nhà 3 tầng. Tầng 1 và tầng 2 là văn phòng làm việc của các bộ phận chuyên môn, tầng 3 là nơi nội trú của các phóng viên và biên tập viên chưa có vợ hoặc vợ con đang ở quê. Vào thời “mở cửa, bung ra”, nhiều phóng viên đưa vợ con ở quê ra “nhảy dù” vào tầng 3. Dần dần, tầng 3 trở thành “khu tập thể”. Cấp trên cũng có nhắc nhở, nhưng rồi đành phải tảng lờ trước sự đã rồi…

Trong số các gia đình ở “khu tập thể tầng 3” có vợ chồng Đại tá K.V quê huyện Thái Thụy, Thái Bình. Bác K.V sinh năm 1927, đi bộ đội từ năm 1947. Năm 1987 bác nghỉ hưu khi các con đều đã thành công dân Hà Nội. Thế là bác về quê vận động bác gái cùng lên sống ở Thủ đô cho gần con cháu. Một đại tá “3 thời kì” như bác, đủ tiêu chuẩn được quân đội cấp nhà ở Hà Nội, nhưng ngặt cái, khi triển khai thủ tục thì cả 2 vợ chồng bác không ai có hộ khẩu Thủ đô. Ra chính quyền địa phương xin nhập hộ khẩu thì được yêu cầu phải có nhà ở hợp pháp mới đăng kí hộ khẩu được… Cứ nhùng nhằng “đá đi, đá lại” mãi vẫn bó tay. Tình huống nghiệt ngã ấy gợi cho tôi “tứ” truyện ngắn sau lấy tên là “Căn hộ thế chấp”. Nhân vật là một vị đại tá quân đội vốn gốc nông dân nhà quê, nghỉ hưu ở lại Hà Nội, hồn nhiên trước những mánh khóe cạm bẫy thị thành và những bất cập, tiêu cực của giai đoạn chuyển đổi cơ chế được đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội cuối năm 1990, sau đó được VTV chuyển thể thành phim truyền hình Ông già hồn nhiên, do nghệ sĩ Văn Hiệp thủ vai chính, đến nay nhiều người còn nhắc. Nó thêm một cú hích quan trọng trong nghiệp cầm bút của tôi, một bài học rất thiết thực về quan sát thực tế và “chi tiết văn học”...

- Là những nhà văn, nhà thơ mặc áo lính luôn đau đáu và đã đạt được nhiều thành tựu về đề tài chiến tranh, người lính, với nhà văn Sương Nguyệt Minh là tiểu thuyết Miền hoang về cuộc chiến tranh Biên giới Tây Nam, truyện ngắn Mười ba bến nước chuyển thể thành phim truyện cùng tên lập kỉ lục với 6 giải Bông sen vàng, truyện ngắn Người ở bến sông Châu được đưa vào giảng dạy ở nhà trường, được chuyển thể thành vở kịch nói Người ở lại…; với nhà thơ Mai Nam Thắng là các tập thơ Mùa cũ, Rét hạ, Từ thủa binh nhì... và 2 tác phẩm đã được nhận Giải thưởng Văn học nghệ thuật của Bộ Quốc phòng là trường ca Cổ tích làng Cát (1999 - 2004) và Lính biển xem chèo (2004 - 2009). Khi viết về đề tài này, có những thuận lợi và khó khăn gì với những người viết nói chung và các ông nói riêng?

Đại tá nhà văn Sương Nguyệt Minh

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Cụ Nam Cao đã từng nói “sống rồi hãy viết”, tôi sống trong khí quyển làng quê thời chiến tranh và hậu chiến, cũng có nghĩa là được trải nghiệm. Tôi cũng là một người lính trong cuộc can dự vào đời sống thời chiến. Với người bình thường sẽ là khó khăn, là điều mất mát, nhưng với nhà văn lại là cái được, cái thuận lợi khi sáng tác. Còn khó khăn lại chính là tâm lí vô hình tự biên tập, “gọt chân cho vừa giầy” mà mình luôn luôn phải tỉnh táo để vượt qua.

+ Nhà thơ Mai Nam Thắng: Như trên tôi đã trao đổi về tình hình đất nước giai đoạn này, mất một thời gian dài, văn học viết về đề tài sau năm 1975, cuộc chiến đấu mà thế hệ chúng tôi có can dự, phải cân nhắc “nhìn trước ngó sau” rất cặn kẽ, cả người viết lẫn người biên tập và nhà in ấn.

Khi mọi chuyện được viết thoải mái, thì cũng là lúc cả thế giới chìm ngập trong xa lộ thông tin, các tiện ích nghe nhìn lấn át văn hóa đọc, văn học nghệ thuật giải trí lên ngôi, công nghệ in ấn và phổ biến tác phẩm “trăm hoa đua nở”, vàng thau lẫn lộn... Văn học đề tài chiến tranh và người lính vẫn là một trong những dòng chủ lưu của nền văn học nước nhà, nhưng nhu cầu thưởng thức và thị hiếu thẩm mĩ của công chúng đã khác trước, đòi hỏi người viết phải nỗ lực vượt lên lối viết truyền thống, thay đổi tư duy, cảm hứng, điểm nhìn... để đến với bạn đọc. Những nhà văn đang tại ngũ còn phải chịu nhiều “chế tài” khác. Ví như đối tượng phục vụ chủ yếu. Ví như cái “khung” của mỗi ban biên tập, tòa soạn, nhà xuất bản... Ví như việc giao lưu, trao đổi với bạn bè và đồng nghiệp quốc tế... Rất nhiều chuyến đi thực tế cùng các đồng nghiệp dân sự, đến khu vực của khẩu quốc tế, “hứng” lên là họ làm thủ tục xuất cảnh sang bên kia thâm nhập, có khi hôm sau mới quay về, còn chúng tôi thì phải ở lại bên này chờ họ...

Cũng xin nói thêm, thế hệ chúng tôi, nhiều người vẫn tiếp tục mạch đề tài truyền thống; có người nhạy bén cách tân, đổi mới, hòa nhịp với thơ trẻ đương đại và ít nhiều có thành tựu. Bản thân tôi cũng có ý thức đổi mới giọng điệu, mở rộng đề tài và điều quan trọng nhất là đổi mới tư duy, cảm xúc. Nhưng quả thực, tôi cảm thấy mình “thuận tay” nhất khi viết về quê hương và đồng đội của tôi, những người lính hôm qua và hôm nay. Thật khó lí giải vì sao tôi rất khó dứt khỏi đề tài chiến tranh và người lính. Có lẽ vì tôi là thế hệ “gạch nối”? Có lẽ tại tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất tuyến lửa Quảng Bình những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước ác liệt nhất. Hay tôi là một nhà thơ mặc áo lính trọn đời? Có lẽ là tất cả!

- Các ông có thể chia sẻ những kỉ niệm trong cuộc đời viết văn, làm báo của mình?

+ Nhà thơ Mai Nam Thắng: Cuối năm 1988, tôi là trung úy “lính mới” của Báo Quân đội nhân dân lên viết bài ở mặt trận Vị Xuyên - Hà Tuyên. Từ cơ quan Sư đoàn 316 ngược chốt biên cương, tôi có thêm bạn đồng hành là một chiến sĩ trẻ tên Tuất. Tuất vừa ra viện, người gầy xanh nhưng phải mang chiếc ba lô căng phồng, trong đó phía dưới là hơn chục cân hạt bo bo, tiêu chuẩn nửa tháng lương thực của anh được thanh toán khi ra viện; phía trên là bó thư của anh em trong đơn vị gửi về quê, bị trả lại vì dán tem giá cũ, trong khi bưu điện đã tăng giá mới. Xin bạn đọc hôm nay đừng thắc mắc tại sao quân nhu lại nhiêu khê như thế. Tại sao bưu điện lại cứng nhắc như thế. Thậm chí nhiều người hôm nay không thể hình dung cái hạt bo bo nó tròn méo ra sao. Đến cuối những năm 80 của thế kỉ trước, đất nước ta vẫn còn nghèo và gian khổ lắm, người lính càng nghèo và gian khổ bội phần. Vị Xuyên ngày nay là một địa chỉ du lịch của tỉnh Hà Giang, có cửa khẩu Thanh Thủy tấp nập hàng hóa giao thương. Quân và dân Vị Xuyên ngày nay có thể nói chuyện với cả thế giới bằng điện thoại viễn thông và Internet. Nhưng mỗi khi nhắc đến Vị Xuyên, trong tôi lại hiện lên hình ảnh người lính trẻ năm nào cõng trên lưng nỗi nghèo khó gian lao của đất nước...

Năm sau, mùa hè 1989, tôi được tòa soạn cử sang mặt trận Campuchia viết bài tuyên truyền về đợt rút quân cuối cùng. Chiều 13/5, từ căn cứ của mặt trận 979 nằm cạnh sân bay Pochentong ở Phnôm Pênh, chúng tôi được đi nhờ trực thăng chở Thượng tướng Lê Ngọc Hiền và Trung tướng Lê Hai lên công tác ở mặt trận Pailin. Sau hơn một giờ bay, trực thăng đáp xuống một vạt cỏ cạnh cơ quan Sư đoàn bộ 330. Trong khi động cơ máy bay vẫn nổ ầm ầm, cánh quạt quay tít, cây chung quanh rạp xuống, một tốp bộ đội đã chờ sẵn và khi đoàn chúng tôi vừa bước xuống, họ vội vàng chuyển những chiếc cáng thương binh lên. Trên cáng, những chiến sĩ trông còn trẻ măng, người băng quấn đầu, người quấn chân, có người không băng bó gì nhưng gầy gò, bất động...

Chiều hôm ấy tại cơ quan sư đoàn bộ, tôi được chứng kiến những ngôi nhà trống huơ trống hoác, vì tất cả ván thưng đã được cạy ra đóng hòm đựng hài cốt liệt sĩ, kịp chuyển về nước trước đợt rút quân cuối cùng. Sau này, công việc làm báo cho tôi được đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều... Nhưng hình ảnh người lính trẻ ra viện ở Vị Xuyên, cùng hình ảnh ở chiến trường Campuchia, là những ấn tượng sâu sắc nhất trong cuộc đời cầm bút của tôi.

Nhà văn Sương Nguyệt Minh tại một đảo chìm ở quần đảo Trường Sa

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Mùa mưa lũ miền Trung năm 1999 gây ra bao nhiêu mất mát tang thương: Hàng trăm người chết, hàng vạn ngôi nhà chìm trong biển nước, một làng ở cửa biển Thuận An bị cuốn ra biển, cửa Thượng Tứ kinh thành Huế nước chảy xiết như hầm xả lũ... Tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc đó có thêm tờ phụ san tiếp cận được phần nào đời sống xã hội và thời sự. Tôi được chứng kiến một không khí các nhà văn nhà thơ viết báo, làm báo thật “nóng bỏng”, sôi động, mau lẹ, kịp thời. Các nhà văn, nhà thơ được phân công đi các nơi phỏng vấn, viết kí, viết phóng sự, bình luận,… Tôi cùng nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, nhà báo Quỳnh Linh được phân công theo máy bay vận tải AN-26 chở hàng cứu trợ từ sân bay Gia Lâm vào sân bay Phú Bài - Huế. Chúng tôi chia nhau bám theo thuyền, xuồng cao tốc đưa hàng cứu trợ đến các xóm xã bị lũ lụt cô lập, rồi theo máy bay trực thăng chở mì tôm, lương khô… bay lên A Lưới đang bị lũ lụt cô lập. Đi đâu cũng thấy cảnh người ngồi trên nóc nhà, trên ngọn cây, rồi lợn, gà, trâu bò chết nổi trôi…, và cán bộ, chiến sĩ dầm mình trong mưa lụt cứu giúp đồng bào. Một hiện thực đau thương, ám ảnh, và tình thương đồng bào đã đi vào trang viết. Loạt bài của ba chúng tôi in trên nhiều số phụ san Văn nghệ Quân đội dịp ấy sau đó được Giải A thể loại phóng sự 5 năm Bộ Quốc phòng.

- Ngoài những thành tựu về văn chương, các anh còn là những nhà báo sắc sảo. Nhưng tư duy báo chí đôi khi lại khó song hành cùng tư duy, cảm xúc văn chương, đặc biệt là thơ, thưa nhà thơ Mai Nam Thắng?

+ Nhà thơ Mai Nam Thắng: Nhiều người vẫn nói làm báo là “giết chết văn thơ”. Điều đó mới nghe có vẻ đúng vì làm văn thơ cần tư duy hình tượng và hư cấu, khác hoàn toàn so với làm báo cần chính xác, thông tin đầy đủ, kịp thời… Nhưng theo tôi, cái sự “giết chết” ấy chỉ đúng với những người hoặc thiếu năng lực, hoặc ít kinh nghiệm, hoặc thiếu đam mê, hoặc chưa nghiêm túc trong sáng tạo… Thực tế trên thế giới cũng như ở nước ta, nhiều nhà văn danh tiếng cũng đồng thời là những nhà báo sắc sảo. Ngay như hiện nay ở nước ta, đa số các nhà văn, nhà thơ đương đại cũng đều là những phóng viên, biên tập viên các tờ báo và tạp chí... Với tôi, văn là nghiệp đam mê, báo là nghề sinh sống. Nhờ làm báo mà tôi không phải lo nhiều lắm chuyện tiền nong mỗi khi “bứt” ra để sáng tác hoặc cần một khoản kinh phí để in sách. Nhờ làm thơ mà những bài báo của tôi bớt khô khan, khó đọc. Lại nhờ làm báo mà tôi có điều kiện được đi nhiều nơi, gặp nhiều người, chứng kiến nhiều cảnh vật để “làm vốn” sáng tác văn chương. Đặc biệt, công việc làm báo đòi hỏi kỉ luật lao động cao và điều đó giúp ích cho lao động nghệ thuật rất nhiều. Người nghệ sĩ chuyên nghiệp không thể sáng tác một cách tùy hứng, ăn may… mà phải lao động một cách nghiêm túc, nhiệt tình và khoa học. Đôi khi phải tạo ra cảm hứng, đi tìm cảm hứng chứ không ngồi chờ cảm hứng đến với mình; hoặc nói như một nhà văn đàn anh của tôi là đôi khi phải “cột chân vào bàn” mà viết. “Bí quyết” thành công nằm ở chỗ phải biết phân thân khi viết báo hoặc khi làm thơ, viết văn; đừng để rơi vào trạng thái lơ mơ để rồi cho ra những cái dở văn, dở báo.

- Thế còn nhà văn Sương Nguyệt Minh, ông gặp phải thử thách gì khi làm báo, viết báo?

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Phần lớn các nhà văn viết báo, làm báo là không được đào tạo chính quy từ trường báo chí, do yêu nghề, do phân công và tự học nên các kĩ năng, đặc biệt kĩ năng làm báo viết báo và sử dụng các phương tiện hành nghề thời kĩ thuật số luôn là thử thách. Hầu hết các nhà văn nhà thơ làm báo, viết báo hiện nay vẫn tư duy, vẫn viết báo theo cách viết truyền thống. Phải rất tỉnh táo nghĩ đến nguy cơ cũ mòn, và bị báo chí hiện đại bỏ rơi.

-… và ông có nhận xét gì về nhà văn viết báo, làm báo?

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Ngoài phẩm chất chung của người hành nghề báo như trung thực, nhạy bén, kĩ năng giỏi, đam mê, dấn thân, can đảm… thì nhà văn viết báo, làm báo còn có điều khác biệt (vừa là ưu điểm vừa là hạn chế) là giàu cảm xúc. Có nội lực mà lại giàu cảm xúc thì viết báo dào dạt, bay bổng, dễ lay động tâm hồn người đọc, nhưng nếu không biết tiết chế thì sẽ lan man, mà thời đại thông tin phát triển như vũ bão lại cần nhanh gọn, chính xác, kịp thời. Có nội lực, nhiều cảm xúc thì khi làm báo sẽ dễ rung động trước bất công ngang trái, dễ xúc động trước phận người bé mọn, yếu đuối, nếu không tỉnh táo tiết chế cảm xúc thì rất dễ chủ quan và tổ chức bài không cân đối sẽ dẫn đến tờ báo nhiều nước mắt.

-… Còn nhà thơ làm báo thì sao?

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Tôi thấy họ thạo làm báo, thậm chí có người làm báo xuất sắc.

Xưa nay, người ta cứ nói nhà thơ là mộng mơ, là vơ vẩn cùng mây, là “tâm hồn treo ngược cành cây”…, phiêu du lưng chừng trời như thế thì sống sao nổi với nghề báo chí vốn khô khan và thông tin, thời sự, nhưng tôi lại thấy các nhà thơ làm báo rất “mả”, rất giỏi. Họ là tổng biên tập, phó tổng biên tập, là thư kí tòa soạn, trưởng ban ở các tờ báo chính trị, tài chính, kinh tế, công nghệ, thông tin… vốn chuẩn mực, ngay ngắn, trang nghiêm và xa lạ với cảm xúc thơ bay bổng. Tôi xin kể tên một số thi sĩ làm quản lí, lãnh đạo báo chí, làm tổng biên tập: Trong Nam là nhà thơ Dương Trọng Dật (Báo Sài Gòn giải phóng), ngoài Bắc thì nhà thơ Thuận Hữu (Báo Nhân Dân), nhà thơ Hoàng Trần Cương (Thời báo Tài chính), nhà thơ Dương Kỳ Anh (Báo Tiền Phong), nhà thơ Nguyễn Ngọc Chụ, nhà thơ Trần Đăng Thao (Báo Giáo dục và thời đại), nhà thơ Hồng Thanh Quang (Báo Đại đoàn kết), nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh (Tạp chí Đời sống & Pháp luật), nhà thơ Bùi Đức Khiêm (Báo Công Thương), nhà thơ Trần Đăng Khoa một thời còn làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam, nhà thơ Phạm Khải (Báo Công an nhân dân)… toàn là những tổng biên tập nổi tiếng. Ấy là chưa kể các tổng biên tập các tờ báo, tạp chí chuyên văn chương cũng là thi sĩ như nhà thơ Vũ Cao, Thanh Tịnh, Nguyễn Bình Phương (Tạp chí Văn nghệ Quân đội), Hữu Thỉnh (Báo Văn nghệ). Dĩ nhiên, các nhà văn cũng làm lãnh đạo báo, tạp chí nhưng có vẻ ít hơn, có thể kể ra lác đác vài vị tổng biên tập như: nhà văn Ngôn Vĩnh, Hữu Ước (Báo Công an nhân dân), Dũng Hà, Nguyễn Trí Huân (Tạp chí Văn nghệ Quân Đội), Bùi Anh Tấn (Tạp chí Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh)… Các nhà văn nhà thơ làm phó tổng biên tập, thư kí tòa soạn, trưởng, phó ban văn nghệ thì kể không hết.

- Là thế hệ những nhà văn, nhà thơ, nhà báo mặc áo lính đi trước, các ông có những tâm huyết gì để văn chương, báo chí Quân đội ngày càng phát triển, xứng đáng với những gì mà thế hệ đi trước đã làm được trong quá khứ?

+ Nhà thơ Mai Nam Thắng: So với đội ngũ các nhà văn đàn anh chuyên tâm và thành danh với mảng đề tài này, thì số lượng các nhà văn trẻ hiện nay viết về chiến tranh và người lính khá thưa và mỏng. Đó là một thực tế rất đáng quan tâm. Nói riêng trong Quân đội của chúng ta, ngoài Tạp chí Văn nghệ Quân đội quy tụ được một đội ngũ nhà văn áo lính khá chuyên nghiệp và “chính quy”, đặc biệt là thế hệ nhà văn trẻ, thì hầu hết các đơn vị và cơ quan tư tưởng - văn hóa trong Quân đội hiện nay đang thiếu vắng những tác giả có uy tín chuyên môn cao như trước đây. Đó là một sự thiếu hụt rất đáng lưu tâm và cần sớm có biện pháp khắc phục.

Có thể nói tính chất căn bản của nền văn học cách mạng Việt Nam là nền văn học có tổ chức. Trước đây trong kháng chiến chống Pháp, nhờ tổ chức tốt phương châm “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa” mà chúng ta đã tập hợp, rèn luyện, phát huy được một đội ngũ nhà văn - chiến sĩ đông đảo và chất lượng. Hoặc như sau năm 1975, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẩn trương tập hợp hàng chục nhà văn ở các chiến trường về các trại viết Vân Hồ, Tô Lịch, Đại Lải, Đà Lạt, Vũng Tàu… Rồi sau đó lại sớm phát hiện và cử đi học tại các trường đào tạo chính quy trong nước và nước ngoài. Nhờ đó mà chúng ta có được một “thế hệ vàng” các nhà văn áo lính bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và có được những tác phẩm xuất sắc về chiến tranh.

Cũng cần nói thêm rằng: Thế hệ chiến sĩ ngày nay có trình độ đầu vào khá cao và tương đối đồng đều, nhu cầu thưởng thức văn học nghệ thuật của họ đa dạng, cập nhật và “hiện đại” hơn các thế hệ trước đây. Đồng thời, người chiến sĩ hiện nay cũng bị những mặt trái của cơ chế thị trường, internet và mạng xã hội tác động rất lớn, vì vậy, đòi hỏi phải linh hoạt và đổi mới công tác văn hóa - văn nghệ trong Quân đội phù hợp và hiệu quả. Chẳng hạn: Nên chăng cần có các biện pháp “tương kế, tựu kế” thay vì cấm bộ đội sử dụng điện thoại thông minh và Internet một cách tuyệt đối. Nên chăng các sản phẩm văn học nghệ thuật cần có nội dung và hình thức phong phú, sinh động hơn, đi cùng các biện pháp chọn lọc và định hướng để giúp người chiến sĩ mở rộng tầm nhìn, phân biệt được các giá trị chân chính.

Sự “linh hoạt và đổi mới công tác văn hóa - văn nghệ” bao gồm cả việc cần khôi phục và nâng cao một số hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của bộ đội thời kháng chiến mà nay đã không còn duy trì, hoặc đã bị mai một, biến tướng. Chẳng hạn: Cùng với việc khuyến khích bộ đội đọc sách báo trên thư viện, phòng Hồ Chí Minh… nên chăng tổ chức những cuộc thi liên quan đến “sự đọc” này… Còn nhớ thời kháng chiến, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân có loại “sách mini” chỉ nhỉnh hơn bàn tay để bộ đội đút túi cóc ba lô. Nên chăng, cần khôi phục lại loại sách này với hình thức và nội dung phù hợp với đối tượng ngày nay.

Cách đây mấy năm, đến giao lưu với một đơn vị, tôi có đọc và bình cho các chiến sĩ nghe bài thơ Con tem quân đội của nhà thơ Đinh Thị Thu Vân viết hơn 40 năm trước. Rất nhiều chiến sĩ đã hỏi tôi: Con tem quân đội là con tem gì? Tôi giật mình ngơ ngác, hỏi ra mới biết từ nhiều năm nay tiêu chuẩn tem thư của bộ đội đã được tính vào tiền phụ cấp. Đó là loại tem thư không giá, ghi rõ là “Tem quân đội” (thời kì những năm 60 - 70 của thế kỉ trước ghi là “Tem binh sĩ”) đã không còn phát hành lâu lắm rồi. Thời nay tem thư mua đâu chẳng có. Xin thưa: Con tem thư không chỉ là vật “trao đổi ngang giá” trong tính toán cước phí, mà còn là một sản phẩm văn hóa, giá trị đôi khi không thể tính bằng tiền. Đặc biệt đối với người chiến sĩ trước đây, con tem quân đội là một phần đời sống văn hóa của anh Bộ đội Cụ Hồ. Tại sao chúng ta không giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hóa có tính truyền thống như thế? Tất nhiên, việc khôi phục con tem quân đội phải đi cùng với những sáng kiến độc đáo thì mới “kích hoạt” được giá trị văn hóa của nó…

+ Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Trong nhiều năm lao động nhà văn, tôi nhận ra một điều: Có rất nhiều dự án, nhiều cuộc vận động, nhiều trại viết, nhiều cuộc thi về đề tài chiến tranh và người lính, có nghĩa là đầu tư tiền bạc, vật chất cho mảng văn học - nghệ thuật và báo chí này không ít, nhưng dường như kết quả lại rất khiêm tốn. Một sáng tác gây sang chấn dư luận, có không? Một bài báo mang tính phát hiện gây sửng sốt, có không? Có phải là do cách làm, cách tổ chức? Bao nhiêu năm nay vẫn cách làm cũ.

Tôi mong muốn có một sự đầu tư sâu, dài hạn. Trước hết là đầu tư về con người, phải xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo và lực lượng báo chí Quân đội tâm huyết và tài năng. Sau đó, là đầu tư tác phẩm, muốn có tác phẩm hay thì phải “trông giỏ bỏ thóc”, “chọn mặt gửi vàng” chứ đừng đầu tư dàn đều.

- Xin cảm ơn hai ông về cuộc trò chuyện thú vị này

NGUYỄN MẠNH HÙNG thực hiện

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

Tại Củ Chi có một suất chiếu đặc biệt của bộ phim “Địa đạo- Mặt trời trong bóng tối” được gọi là suất chiếu tri ân.

Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Trong truyện ngắn này, có một nhân vật học viên trong cương vị chủ tịch phường đang theo học lớp tại chức mà nhân vật “tôi” làm thầy giáo đứng lớp... (VĂN GIÁ)

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)