. ĐỖ BÍCH THÚY
Tôi có nhiều kí ức về vùng Tày, vùng văn hoá mà ở đấy tôi đã nhú lên như một cái mầm cây mà cha mẹ cùng nhau gieo hạt. Nhưng cũng bởi vì lớn lên trong nó, mọi thứ thân thuộc quá nên cứ phải đi xa, thật xa, rồi thảng hoặc ngoảnh lại mới thấy nó thật là khác biệt.
Người Tày sống dưới chân núi, do cái tập quán canh tác trồng lúa nước mà họ chỉ sống dưới chân núi, trong các thung lũng có sông, suối chảy qua. Ngôi làng Tày nào cũng có ít nhất một con suối, người ta dùng những cái cọn để cuốn nước vào ruộng đồng. Lúa chín, cần gặt lại tháo nước ra. Con gái Tày làng tôi nổi tiếng xinh đẹp. Da trắng, môi đỏ, vóc dáng mảnh dẻ. Phụ nữ Tày thường mặc trang phục đen, thắt lưng bằng một dải vải thổ cẩm nhiều màu sắc rất đẹp mắt. Cái thắt lưng của phụ nữ Tày là điểm nhấn quan trọng nhất trên cả bộ trang phục thuần một màu đen đơn điệu. Nó khiến người ta thấy cái eo con kiến, lại khiến bộ trang phục vừa kín đáo, gọn gàng nhưng vẫn gợi cảm.
Minh hoạ: Nguyễn Bá Kiên
Vì có suối chảy qua mà làng nào cũng có ít nhất một cây cầu. Và cây cầu của làng nào cũng được gọi là cầu Tình. Nó là nơi trai gái đến tuổi yêu đương tụ tập, hẹn hò, đưa đẩy. Không biết bao nhiêu mối tình nảy nở từ những cây cầu ấy. Những đêm trăng sáng, trời trong, gió mát, tiếng cười đùa râm ran kéo dài đến nửa đêm.
Người Tày sống hiền hoà, ít cãi cọ, ít va chạm, trong gia đình người Tày cũng ít lục đục. Phụ nữ Tày rất được coi trọng dù vẫn theo chế độ phụ hệ. Ngày xưa, đám cưới người Tày thách cưới rất cao. Những gia đình người Kinh từ dưới xuôi lên lập nghiệp như gia đình tôi, các bậc cha mẹ luôn rất sợ con trai mình yêu rồi đòi cưới một cô gái Tày, vì lo không đủ khả năng sắm sửa lễ vật. Ít thì năm mươi, nhiều thì một trăm. Tức là trăm cân gạo nếp, trăm cân gạo tẻ, trăm lít rượu, trăm đồng bạc trắng... Nhà nào càng đông con trai thì áp lực cưới vợ cho con càng lớn. Chẳng biết có phải vì cưới vợ khó quá hay không mà anh nào cưới được vợ về cũng hết sức cưng chiều vợ. Con dâu về nhà chồng tất nhiên cũng phải chuẩn bị quà cáp để biếu bố mẹ, ông bà, anh chị em ruột thịt đằng chồng, nhưng nói chung chẳng thấm vào đâu so với sự tốn kém của nhà trai. Phụ nữ Tày khi sinh con được cả nhà chăm chút kiêng cữ, không phải làm việc nặng, ăn những món ngon bồi bổ sức khoẻ, con trẻ bụ bẫm, mẹ đẹp hồng hào. Khi nào bố mẹ chồng có điều kiện thì cho vợ chồng trẻ ra ở riêng. Vợ chồng vun vén, chăm chỉ làm lụng, nuôi dạy con cái, cứ tuần tự như thế từng thế hệ. Người đàn ông rất tôn trọng vợ, lắng nghe ý kiến vợ. Phụ nữ Tày thời sau này tham gia đủ mọi công việc thôn bản làng xã, anh chồng cũng không càu nhàu khó chịu gì. Tất nhiên cũng có lúc nọ lúc kia, nhưng bạn cứ thử yên lặng đi vào một ngôi làng Tày và chăm chú quan sát mà xem, cái cảm giác thanh bình luôn bao trùm từng nếp nhà, mảnh vườn, những đàn gia súc gia cầm, lúa ngô hoa màu... Cái sự thanh bình ở cảnh sắc ấy được tạo ra bởi con người.
Tôi vừa về hồi cuối mùa thu.
Làng tôi đã khác nhiều so với những gì tôi luôn lưu giữ trong kí ức.
Nếu khi xưa mọi ngôi nhà sàn đều nằm nép dưới chân núi - một thế dựng nhà rất hợp “phong thủy”, ruộng bậc thang thoai thoải chạy trước nhà ra tận đường cái; thì bây giờ ruộng lại ở giữa. Nhiều hộ gia đình ra làm nhà sát đường ô tô chạy, mở sạp hàng buôn bán nhỏ. Chủ yếu là các gia đình trẻ. Sau lưng những ngôi nhà ấy là ruộng, chạy xuyên qua ruộng lại đến những nếp nhà cũ xửa xưa vẫn còn nằm yên dưới chân núi. Cô chủ tịch hội phụ nữ xã làm dâu ở làng tôi. Một phụ nữ còn trẻ, nhanh nhẹn năng động. Bố chồng cô xưa là bạn rất thân của bố tôi, nên mỗi khi tôi in sách mang về cho bố đọc thì bố lại tặng ông bạn. Và cô con dâu đã đọc ngấu nghiến những cuốn sách ấy.
Bọn tôi ngồi ở cái gờ bê tông được xây ven con đường nhỏ, trước mặt là lúa xanh mướt mát mượt mà. Ẩn - tên cô ấy - chỉ cho tôi thấy một ngôi nhà đã cũ, nằm nép tít bên trong con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo ven bờ ao, bên trên những bụi hóp cao ngồng che kín hết bầu trời. Đấy là nhà của bố mẹ một nhân vật của tôi.
- Chị có muốn gặp lại anh ấy không?
Tôi mỉm cười lắc đầu.
Kí ức đối với tôi mà nói, đẹp tới mức khiến tôi trở nên mong manh, chỉ sợ chạm khẽ vào thì sẽ rạn vỡ mất.
Tôi thấy trong lòng mình có điều gì đó vừa trào lên, thật ấm nóng.
Hình như làng đang vươn tay ra ôm lấy đứa con đã rời làng đi quá xa, quá lâu.
Gần chỗ bọn tôi đang ngồi khi xưa là cái sân chung của làng, để dành cho những dịp lễ hội. Cứ sau Tết Nguyên đán chừng chục ngày thì một cây nêu rất cao sẽ được dựng lên ở giữa sân, trên ngọn cây nêu có cái mâm bằng giấy đỏ. Nam thanh nữ tú sẽ ném những quả còn tự tết bằng vải, bên trong gói cát cho nặng tay. Ai ném thủng được cái mâm cao ngất ngưởng ấy thì được nhận phần thưởng. Phần thưởng có thể là một chiếc chậu nhôm hoặc phích nước, bao giờ cũng được gói trong giấy đỏ.
Bây giờ chỗ đấy là nhà sinh hoạt cộng đồng của làng. Một ngôi nhà sàn “cách tân”. Có thể bạn sẽ thấy khó chịu một chút khi thấy rằng đó không còn là một ngôi nhà sàn truyền thống đúng nghĩa nữa, nhưng sự khó chịu sẽ tan biến đi khi bạn biết rằng: Người ta dừng khai thác gỗ để làm nhà từ lâu rồi. Cũng có người nói, còn đâu mà khai thác. Nhưng thực tế thì, kể cả còn thì người Tày cũng không khai thác nữa. Nhận thức về việc bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước đã khiến người ta thương những cánh rừng nhiều hơn từ vài thập kỉ trở lại đây. Rừng đã dần xanh trở lại dù cái sự xanh ấy vẫn còn yếu ớt.
Chuyến này về, một trong những điều tôi muốn nhất là tìm lại những người có thể chơi đàn tính, hát then.
Làng không có ai. Cánh phụ nữ cả trung tuổi lẫn trẻ tuổi hiếm lắm mới có một người thuộc một vài làn điệu then. Người gần như duy nhất vừa chơi được đàn tính vừa hát được những làn điệu then cổ là một ông... pụt ở làng kế bên. Pụt tức là người làm những việc tâm linh trong làng nhưng mới ở cấp thấp. “Cao thủ” phải là những ông mo. Ông pụt này ngoài năm mươi. Ông chơi được đàn, hát được một ít làn điệu, cổ cũng có mà kim cũng có. Sau đám cỗ, mọi người ngồi xúm xít uống trà nghe ông ấy hát. Nhưng ngay cả điều đó cũng hiếm khi.
Theo quan niệm của người Tày, Then có nghĩa là Thiên. Làn điệu then được coi là của thần tiên truyền lại. Chính vì thế, trong đời sống của người Tày cổ xưa, then vốn được dùng trong những sự kiện trọng đại như lễ cầu an, cầu mùa, gọi hồn… Những làn điệu then giúp người Tày gửi lời cầu khấn đến nhà trời. Càng về sau này thì người ta càng dùng then để biểu đạt nhiều nội dung, hoàn cảnh, tâm tư gần gũi với đời sống thường nhật hơn. Lời ca giản dị, ấm áp, dịu dàng, tha thiết, nhất là những làn điệu giao duyên, nhung nhớ chồng/ vợ/ người yêu...
Người hát then nổi tiếng nhất trong cộng đồng người Tày không chỉ Hà Giang, Tuyên Quang bây giờ là một người còn rất trẻ - Xuân Hữu. Xuân Hữu sinh năm 1991, nhưng cậu đã có hàng chục năm làm cái công việc rất hiếm hoi là truyền dạy hát then, đàn tính tới cộng đồng người Tày. Vợ chồng Hữu sống cùng cha mẹ trong một ngôi làng Tày thuần chất, đúng như tôi vẫn hình dung về mỗi ngôi làng Tày. Vợ cậu ở nhà làm nông nghiệp cùng cha mẹ, còn Hữu cứ vài ngày một lần lại đeo cây đàn sau lưng, lên xe máy rong ruổi khắp nơi. Đâu đâu khắp vùng Việt Bắc Hữu cũng có học viên. Hữu đã từng học sư phạm mầm non, đã từng đi dạy, nhưng rồi niềm say mê then đã cuốn cậu đi. Hữu có gương mặt rất trong sáng, mỗi khi cầm cây đàn lên, so dây, kẹp bộ xúc xắc vào hai ngón chân và cất tiếng hát, tôi có cảm giác cả ngôi làng của cậu được bao phủ bởi một bầu khí quyển khác.
“Chị có muốn đi thăm một học viên với em không? Cụ này hay lắm”. Hữu nói, miệng cười mắt cười.
Tôi leo lên đằng sau xe máy của Hữu, cầm đàn giúp cậu. Chiếc xe cà tàng chạy trên con đường nhỏ vừa được trải bê tông xuyên qua những nếp nhà sàn, những tán cọ già, những bụi tre hóp, và xuyên qua cánh đồng mướt mát xanh trong cái nắng chiều vàng óng.
Học viên lớn tuổi nhất của Hữu là một cụ già đã tám mươi bảy tuổi, đẹp lão và rất minh mẫn. Cụ đi bộ đội, chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Về quê tham gia công tác ở xã, ở huyện. Đến khi về già, con cái lớn hết, cháu nội ngoại một đàn, cụ mới túc tắc theo học cầm đàn, học vài làn điệu then. Hát then không khó. Đàn tính cũng không phải là một nhạc cụ phức tạp. Cái khó là người ta phải trả lời câu hỏi: Học hát để làm gì? Các bạn thanh niên người Tày bây giờ, nhất là khi du lịch ngày một phát triển, bắt đầu nhận ra rằng những gì của cha ông để lại hầu hết là vốn quý. Cũng vì thế, niềm say mê đơn thuần của Xuân Hữu có “đất” để “sống”.
Hữu còn giới thiệu cho tôi tìm được một người được coi là nghệ nhân hiếm hoi vẫn đang chế tác đàn tính, ông Kim Sinh. Cậu gọi điện hẹn trước để tôi đến mà ông Kim Sinh không vác đàn đi đâu mất.
Vợ chồng ông Kim Sinh đang ở trong một ngôi nhà sàn có lẽ phải tám mươi năm tuổi. Ông Kim Sinh ngoài sáu mươi, mà ngôi nhà này có từ thời ông nội ông. Chính xác thì bố mẹ ông Kim Sinh không có con, ông là con nuôi của họ từ lúc còn rất nhỏ, thậm chí không biết cha mẹ đẻ của mình là ai.
Tôi lúc nào cũng mê những ngôi nhà sàn truyền thống với mái lợp lá cọ rất dày, với cầu thang có đúng chín bậc đã mòn vẹt vì hàng triệu bước chân, với sàn nhà bằng những cây vầu rất già, tách ra thành phên, xếp liền với nhau. Người Tày bao giờ cũng làm cái bếp giữa nhà. Bếp lửa y như trái tim của ngôi nhà vậy. Nó luôn ấm nóng ngay cả khi người ta vắng nhà. Một gộc củi to, cứ ngun ngún suốt ngày đêm. Khi đi làm về, người phụ nữ chỉ cần chụm những cành củi nhỏ lại, thổi khẽ là than từ gộc đỏ lên, bếp lại lách tách reo vui. Cái bếp lửa hình vuông, phía chính diện, quan trọng nhất, kê một tấm phản to. Sau lưng, trên vách là ban thờ gia tiên. Người duy nhất được ngồi trên tấm phản đó, quay lưng lại ban thờ, là người chủ gia đình. Tức người chồng. Hoặc người già, bà hoặc ông nội. Phụ nữ, trẻ con chỉ được ngồi ở ba phía còn lại.
Nhà ông Kim Sinh cũng đã có thay đổi một chút, cái bếp truyền thống không còn nữa. Người Tày chuyển sang đun bếp ga, bếp điện từ lâu.
Ông Kim Sinh hồi trẻ đã từng đi theo một đoàn văn công vì ông mê ca hát quá. Nhưng rồi bố mẹ già chỉ mong có con cháu bên cạnh nên ông ngậm ngùi vâng lời. Về làng, những lúc rảnh rỗi ông mang sáo trúc ra thổi, mang đàn tính ra chơi. Dần dà ông mày mò tự làm đàn. Ông tìm giống bầu về trồng. Những quả bầu tròn như bí ngô lúc lỉu trên sàn. Ngày tôi đến vườn bầu đang lụi, sắp sửa trồng vụ mới. Cái giống bầu tròn rất lạ, không ăn được, chỉ được dùng để làm bầu đàn. Dưới gầm sàn trước khi là nơi thả gia súc gia cầm thì bây giờ là cái “công xưởng” nhỏ của ông.
Hầu hết thì ông tự làm, cưa, đục, chạm trổ cần đàn, trừ có một thứ ông không làm được mà phải nhờ bà vợ rất mỏng mày hay hạt, là làm cái tua rua để trang trí ở đầu cây đàn. Tôi cứ nhìn mãi đôi bàn tay thô mộc, đầy vết nhựa cây, gai cào, sẹo lớn sẹo bé lại còn nứt nẻ của người phụ nữ cả đời làm nông nghiệp thoăn thoắt tết những sợi chỉ màu, xâu hạt rồi kết thành những chùm tua rua vô cùng đẹp mắt. Tự hỏi, không biết người phụ nữ này có từng đặt chân tới thủ đô bao giờ chưa? Bà ấy có biết gì về thế giới ngoài kia, bên ngoài những luỹ tre rất già, băng qua những con suối mùa đông thì cạn khô còn mùa hè lại ào ào thác lũ, băng qua những đoạn đường lồi lõm toàn ổ gà ổ trâu? Hay mọi thứ mà bà ấy hình dung đều chỉ qua màn hình tivi hay bây giờ là những chiếc điện thoại thông minh len lỏi vào mọi xóm làng?
Để đi vào đến đây, ngôi làng nằm khuất nẻo gần phía dãy Hoàng Liên Sơn, cách quốc lộ 2 chỉ gần năm chục cây số, chúng tôi đi mất 3 giờ đồng hồ. Vừa đi vừa hỏi đường vì Google map chưa cập nhật được địa chỉ. Đã quá giờ cơm trưa, ai cũng đói bụng, bà chủ nhà mang ra một rổ bánh chuối để cả bọn ăn tạm. Bên ngoài trời nắng vàng óng, gió lao xao, xóm làng yên tĩnh vì nhà nào nhà nấy cách nhau cả quãng, giữa họ là suối, là ruộng vườn, thảng hoặc có tiếng chó sủa, gà cục tác...
Ấy thế mà, vào những lúc nông nhàn, trong ngôi làng ấy lại có một người nghệ sĩ thực thụ, lúi húi cắt, bào, đục, so dây, thử tiếng... những cây đàn.
Tôi rời khỏi làng khi nắng đã tắt. Tâm trí vẫn phảng phất những thanh âm đơn sơ vẳng ra dưới mái lá cọ đã bắt đầu hoai mục:
Vượt lên nơi sơn lâm hái quế, lao xuống nơi rừng già hái hoa.
Giêng, hai, ba mùa xuân, tiên hái hoa rừng già.
Bốn, năm, sáu mùa hè, chúa hái hoa Mường tiên...
Quê nhà ở lại sau lưng nhưng luôn có quá nhiều thứ gọi tôi quay về...
Đ.B.T
VNQD