Lịch sử gọi tên làng

Thứ Hai, 15/12/2025 17:37

 

. NGUYỄN XUÂN THỦY
 

Năm 2024, khi tham dự trại sáng tác của Hội Điện ảnh Việt Nam tại Thanh Hoá tôi đã được đến thăm một ngôi làng đặc biệt. Từ trung tâm Thanh Hoá chúng tôi di chuyển về hướng cầu Hàm Rồng và dừng lại ở một ngôi chùa nằm tựa lưng vào núi Rồng, đầu làng Đông Sơn. Theo lối nhỏ nơi lưng chừng núi vào phía sau chùa, có một hậu cung tuy nhỏ nhưng từng đường nét ngậm màu thời gian, sắc mộc trên thềm rêu đối lập với ngôi chùa mới khang trang vừa được phục dựng. Nhà nghiên cứu Hà Huy Tâm, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu ứng dụng văn hoá truyền thống và kiến trúc xây dựng Việt Nam, một người con xứ Thanh cho biết, hậu cung này là minh chứng cho sự tồn tại của ngôi chùa trên nền đất cũ đã bị bom Mĩ đánh sập. Từ hậu cung nhỏ này, câu chuyện giữa chúng tôi mở ra ngôi chùa, mở ra làng Đông Sơn suốt dọc dài lịch sử.

Theo vị sư trụ trì, Đại đức Thích Nguyên Phong, chùa Phạm Thông nằm bên phải làng Đông Sơn theo hướng từ núi nhìn xuống được xây dựng cuối thời Lý đã đi vào thơ ca từ rất sớm với tên gọi Bồ Đề tự. Hiện ở xứ Thanh vẫn còn bia lưu lại bản khắc bài thơ Thượng Sơn vi ký. Khởi thủy chùa là Am Vân Tự, sư trụ trì đầu tiên là Quán viên Quốc sư. Theo sử sách, thời nhà Trần có một nhà sư trụ trì ở đây mấy chục năm, tên húy là gì không biết nhưng ngài lấy danh là Quán Viên. Sau khi đắc đạo ngài ra thiên hạ chữa bệnh giúp người bằng trường sinh học. Tiếng lành đồn xa, vua nhà Trần ở Thăng Long bị đau mắt, bộ hạ tìm đến ngài ngỏ ý. Vua ở Thăng Long, ngài chỉ ngồi tại chỗ mà chữa khỏi. Vua Trần bèn cho rước ngài về kinh đô phong là Quốc sư. Sau khi được tấn phong, ngài trở về Am Vân Tự, bao nhiêu tặng phẩm đều phân phát hết cho thiên hạ, trở lại mảnh áo nâu sòng và cây tích trượng. Thọ giáo nhà Phật, có phép thần, nơi nào không ngay ngài dùng cây tích trượng phá hủy, các ác thần cũng bị ngài áp chế, vị thần nào phù trợ cho dân lành thì ngài phò ủng. Từ đó Am Vân Tự được duy trì, bồi tụ. Kế tục Quán viên Quốc sư, nhà sư Tuệ Thập trụ trì chùa cũng được giới tăng ni phong làm Tuệ thông Đại sư. Ngài là Phạm Thông, tu hành ở núi Thanh Lương trước khi về chùa Đông Sơn. Vì thế chùa Đông Sơn còn được gọi là chùa Phạm Thông theo tên vị sư trụ trì thứ hai này.

*

*        *

Theo chân nhà nghiên cứu Hồ Huy Tâm và Đại đức Thích Nguyên Phong chúng tôi dạo bước trên đường làng. Những ngõ xóm chạy từ chân núi xuống, thoải theo độ dốc, tất cả gặp nhau ở trục đường ngang chính. Từng mái ngói rêu phong như màu đá núi, lắng đọng lớp thời gian trầm mặc. Trong những lớp nâu rêu phủ ấy, có cả mùi khói bom, cả những âm thanh máy bay, tiếng đạn pháo cao xạ. Lịch sử ngưng đọng dưới từng mái hiên, trên từng viên gạch.

So với thời xa xưa thì làng Đông Sơn đã mở rộng, thêm nhiều xóm mới, nhưng kết cấu cũ từ thuở dựng làng vẫn còn nguyên bản. Làng nhỏ xinh bao trọn trong tầm mắt khi đứng trên núi Rồng nhìn xuống, nằm gọn giữa một bên đình, một bên chùa, giữa là miếu. Trong cuốn sách khảo cứu có tên Làng cổ Đông Sơn do ông Lương Đại Dũng, một người con của làng, là đại tá quân đội có dẫn rằng, người xưa khái quát về làng Đông Sơn qua bốn câu thơ: Long hổ đồng hội kiến/ Sơn thủy cộng tri giao/ Xã tắc như thạch diện/ Hồng thủy bất ba đào. Nghĩa là ở thế đất hội tụ cả rồng và hổ, núi sông quyện vào nhau hữu tình, bền vững như tòa nhà bằng đá, sông hồ phẳng lặng êm ả không có sóng to gió lớn. Như vậy, ngôi làng nhỏ ẩn mình dưới núi Rồng hẳn chẳng tầm thường. Cái sự “chẳng tầm thường” ấy có thể nhìn nhận qua lăng kính chiến tranh.

Đại đức Thích Nguyên Phong, Trụ trì chùa Đông Sơn cùng Đạo diễn Phạm Lộc tham quan làng cổ. Ảnh: Nguyễn Xuân Thuỷ

Khi Mĩ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, cầu Hàm Rồng, huyết mạch giao thông Bắc - Nam là mục tiêu bị đánh phá nghiêm trọng. Cả Hàm Rồng là một chiến trường. Đông Sơn - Hàm Rồng những năm chống Mĩ đã trở thành những từ khóa quen thuộc. Suốt bảy tám năm ròng rã không quân Mĩ trút không biết bao nhiêu bom đạn xuống mảnh đất này. Có một Đông Sơn gắn với lịch sử chiến tranh cách mạng, cụ thể là cuộc chiến bảo vệ huyết mạch giao thông cầu Hàm Rồng trên tuyến quốc lộ 1A. Tử huyệt này là nơi so trí, đọ tài, thi gan giữ danh dự giữa một siêu cường ngạo mạn và một dân tộc nhỏ bé mà gan góc, không chịu khuất phục. Chỉ một cây cầu nhỏ bé nối đôi bờ sông Mã mà trong gần chục năm giao tranh hút đến hàng trăm tấn bom, 117 máy bay Mĩ vì nó mà bị loại khỏi đội hình chiến đấu.

Địa thế Đông Sơn đã khiến làng trở thành làng kháng chiến. Kháng chiến tại chỗ, mặt đối mặt với kẻ thù từ trên trời, không phải đi sơ tán như các làng khác quanh khu vực cầu Hàm Rồng. Làng có nhiều núi, núi lại có nhiều hang. Hang đá lớn có thể chứa mấy trăm người, hang đá nhỏ cũng chứa được vài chục. Vì thế, cứ máy bay vào oanh kích, có báo động thì dân vào hang đá trú ẩn, hết lại ra tu sửa hầm hào công sự, tải đạn, tải thương… Có thể nói đó là những trận đánh “giáp lá cà” giữa không quân hiện đại và pháo phòng không mặt đất trong một thế trận chiến tranh nhân dân. Làng Đông Sơn khi đó là trung tâm của Tiểu khu Hàm Rồng. Làng thành lập trung đội dân quân trực tiếp chiến đấu, là lực lượng chính phối thuộc, tăng cường cho các đơn vị pháo phòng không ở đồi Không Tên, đồi 37, đồi 57, đồi C4... Do được huấn luyện nên các dân quân có thể ngồi vào mâm pháo chiến đấu như bộ đội chính quy. Chỉ hơn ba mươi người nhưng họ thực sự là đơn vị chiến đấu. Bây giờ những cựu dân quân ấy vẫn sinh hoạt trong Câu lạc bộ cựu dân quân, nhưng các thành viên đa phần cũng đã già yếu, không còn sôi nổi như xưa dù vẫn ẩn tàng khí chất. Những ngày ấy, người Đông Sơn có động thì ra hang núi trú ẩn, bình thường lại về làng bám nhà cửa, bám trận địa chiến đấu. Bà Lương Thị Thục là dân quân từ những năm tháng ấy. Bom đánh mất hết quần áo, bà vẫn chạy dọc cầu Hàm Rồng để báo cho đoàn xe ta kịp dừng lại. Bây giờ ngày ngày bà vẫn trồng rau xung quanh chiếc hố bom còn lại từ thời chiến tranh, sáng sáng quảy gánh ra chợ bán. Ông Lương Thế Tập, người thừa kế ngôi nhà cổ tại Đông Sơn trước khi nhập ngũ chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên cũng từng là dân quân bảo vệ cầu Hàm Rồng. Trở về quê hương, hiện ông chăm lo trùng tu ngôi nhà cổ để nó trở thành điểm tham quan của khách xa gần khi về Đông Sơn.

Có một mạch nguồn âm thầm chảy trên dải đất này, xuyên qua chiến tranh, loạn lạc. Có điều gì quan trọng, thiêng liêng hơn thực tại khắc nghiệt của chiến tranh, khi người ta cảm nhận mãnh liệt sự kết tụ trên mảnh đất này từ những năm khói lửa. Những hiện vật tìm thấy ở Đông Sơn những năm cuối nửa đầu thế kỉ XX đã khiến nhiều nhà khảo cổ nước ngoài nghĩ đến một nền văn hóa bắt đầu từ nơi đây. Dù đất nước đang chiến tranh nhưng tại Đông Sơn vẫn có nhiều đoàn khảo cổ về làm việc. Trong trí nhớ của nhà văn Từ Nguyên Tĩnh - một chiến sĩ Hàm Rồng, một nhà khảo cổ đến từ Hà Nội đã nói với những pháo thủ đồi C4 ngày ấy rằng, “tuyệt diệu quá, trận địa pháo của các đồng chí đang đặt lên nền văn hóa Đông Sơn mấy nghìn năm của dân tộc”. Đó là một sự thật đã được thế giới ghi nhận. Người cán bộ khảo cổ tâm huyết ấy, sau đó hi sinh trên chính trận địa C4 trong một trận đánh. Công cuộc khảo cổ của ông đã được các đồng nghiệp tiếp tục cho đến sau ngày đất nước hòa bình, Bắc Nam về một mối.

Nhà thơ Huy Cận khi về Đông Sơn thực tế cuộc sống chiến đấu tại đây, cảm kích trước ý chí chiến đấu của quân và dân ta, đặc biệt là của người làng Đông Sơn đã có bài thơ Chào Đông Sơn với những câu: Đông Sơn thôn anh hùng đánh Mĩ/ Nơi sơ sinh nền văn hóa quê mình/ Trống đồng vọng từ ba mươi thế kỉ/ Lấp lánh trong luồng mắt chớp ra đa. Cũng từ bài thơ đó mà sau này người Đông Sơn luôn nghĩ làng mình là anh hùng, cũng chẳng ai nghĩ đến việc xin phong tặng nữa, thành ra trong khi các làng Nam Ngạn, Yên Vực tham gia chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng đều được phong anh hùng trên giấy trắng mực đen thì Đông Sơn vẫn chưa có danh hiệu cao quý ấy. Ông Nguyễn Vệ, Trưởng làng Đông Sơn hiện nay bằng chất giọng sang sảng của một cựu công an nhân dân giãi bày, ông không băn khoăn vì làng chưa được anh hùng, điều ông băn khoăn là Hang Làng lẽ ra phải được công nhận di tích cách mạng vì nơi đó là trụ sở hoạt động của Ủy ban hành chính kháng chiến. Những năm bom đạn, khoảng hai chục nóc nhà Đông Sơn bị thiệt hại, một nhà cổ bị cháy, một số người bị chết do pháo kích câu từ biển vào. Có hai vị trí người làng chết nhiều nhất là bên kia núi Đình, khu vực có một ruộng bậc thang sườn đất được người dân làm nhà tranh ở để khi có bom dễ dàng chạy vào hang trú, nhưng bất ngờ một trận bom đánh vào khóm dân cư này, bà con không kịp chạy, 18 người đã thiệt mạng. Hiện nay ở đây vẫn còn một bia căm thù được dựng trên núi, lời lẽ đanh thép quyết tâm tử thủ bảo vệ xóm làng. Nơi thứ hai là ở khu vực động Tiên Sơn, trong động có một lều tranh để nghỉ ngơi, nấu ăn. “Khi có máy bay là kẻng báo động lớn lắm, dân đang làm sẽ chạy vào hang trú ẩn. Mọi bữa đều như thế, nhưng đêm hôm đó máy bay vào đánh phá bất ngờ chạy không kịp, chết mất 34 người, có nhà chết chẳng còn ai”, ông Vệ kể giọng xót xa. Đó là hai vụ thiệt hại lớn nhất trong những ngày khói lửa của Thanh Hoá, của Đông Sơn. Hai trận bom khiến gần một trăm người bỏ mạng vẫn là nỗi ám ảnh dai dẳng với người dân Đông Sơn.

Bia căm thù dựng trên một sườn đồi để ghi nhớ những nạn nhân thiệt mạng bởi bom Mĩ ở Đông Sơn. Ảnh: Nguyễn Xuân Thuỷ

Cống hiến, thành tích và sự anh dũng trong chiến đấu như vậy nhưng mãi năm 1998, khi phường Hàm Rồng được phong danh hiệu Anh hùng LLVTND thì Đông Sơn cũng mới được coi như anh hùng vì làng thuộc phường, còn trước đó ngôi làng này vẫn anh hùng nhưng là anh hùng… trong thơ Huy Cận.

*

*         *

Thuở lập làng Đông Sơn được cho là từ năm 1740, khi đó Thám hoa thị vệ Trịnh Thế Lợi, một vị quan nhà Lê theo lệnh nhà vua về Thanh Hóa tìm đất lập chiến khu phòng vệ cho triều đình khi có biến cố. Thấy vùng Đông Sơn địa thế hiểm yếu, có núi non che chắn, lại gần sông, rất phù hợp. Với sự trợ giúp của ông Lương Viết Vượng, một người làng có vị thế thuộc họ Lương Trí, ngài đã kêu gọi hai trang Đông Cương thượng và Đông Cương hạ cùng tụ lại lập làng mới là làng Đông Sơn. Thám hoa thị vệ Trịnh Thế Lợi đã xem địa thế, cắm mốc giới cho làng với vị trí hai hòn đá cõi. Hòn đá cõi và cây đa cửa lũy là những chỉ dấu cương vực của làng, không ai được sinh sống vượt ra khỏi ranh giới ấy. Thế mà suốt hơn hai trăm năm nguyên tắc ấy đã được tuân thủ tuyệt đối. Đến thời hiện đại, khi phong trào cải cách lan đến Đông Sơn, hòn đá cõi hình trụ ấy đã bị đánh bay, cây đa cũng bị đốn, chỉ còn lại vị trí của nó. Làng có một đường trục chính và bốn ngõ xương cá lần lượt là Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng. Ba phía là núi, trước mặt là cánh đồng rộng, cổng làng hướng về phía đình làm bằng gỗ, xưa có lính gác. Đi từ đình làng vào đầu tiên sẽ là ngõ Nhân, đứng giữa làng nhìn ra, bên trái là Nhân - Nghĩa, bên phải là Trí - Dũng theo tinh thần Nho giáo. Sau này mới mở thêm Ngõ Nghẹo, xóm ngoài Đông Quang, xóm Lò Gốm… Khi Thám hoa thị vệ Trịnh Thế Lợi qua đời, dân làng đưa lên gò đất cao nhất ở giữa làng có hình một chiếc móng rồng để an táng theo phong cách “thượng sàng hạ mộ”, trên là linh sàng, dưới là mộ phần. Ngài được tôn làm Đệ nhị Thần hoàng. Cho đến rất nhiều năm sau thì nơi đây vẫn được coi là một ngôi miếu thiêng. Đồn rằng, đi qua miếu Ngài phụ nữ không ngả nón sẽ bị ốm đau. Trước đây miếu có mái che, nhưng sau lần bị hỏa hoạn người dân được báo mộng ngài muốn để miếu trần nên khi xây lại đã không làm mái nữa, bởi thế nhiều người còn gọi nôm là Miếu Trần khiến ai không biết dễ lầm tưởng là Miếu… nhà Trần.

Thế còn Đệ nhất Thần hoàng của Đông Sơn là ai? Người làng Đông Sơn truyền tụng qua nhiều đời một câu chuyện li kì. Từ thuở xa xưa, khi Đông Sơn chưa hình thành, vùng này chỉ có hai trang Đông Cương thượng và Đông Cương hạ. Vào một ngày kia, có một tướng quân vừa chiến đấu với quân xâm lược nhà Đường, bị địch chém đầu gần lìa khỏi cổ, cưỡi ngựa hồng chạy đến địa phận trang Đông Cương thượng gặp bà bán quán thì dừng lại hỏi: Bà có thấy ai bị chặt rơi đầu lắp lại lên cổ mà vẫn sống không? Bà bán quán trả lời rằng: Tôi chưa thấy ai như vậy bao giờ. Nếu có chỉ phàm là Thánh. Bà vừa dứt lời thì người ngồi trên lưng ngựa ngã xuống tắt thở ngay tại chỗ. Bà liền chạy về báo cho dân làng biết, nhưng khi mọi người chạy ra đến nơi thì mối đã đùn lên chỗ thi hài ngài thành ngôi mộ lớn. Ngày ngài hóa là ngày mùng 3/3 âm lịch, sau này được chọn làm ngày hội của làng với nhiều nghi thức tâm linh để ghi nhớ vị Thánh cả. Dân làng tôn ngài làm thần hoàng, xây đền thờ tại Mả Tắt cạnh chân núi Voi bên bờ sông Mã. Tên húy của ngài là Lê Hữu, vốn là con trai út của Thái thú Quận Cửu Chân Lê Ngọc. Sau này ngài được tôn là Tham xung Tá quốc.

Nơi miếu thờ ngài xưa nằm bên bờ sông Mã, tuy thời tiết khắc nghiệt, hứng gió, dầm mưa tiêu điều nhưng rất linh thiêng. Năm Tân Hợi, Vua Trần Thái Tông thân chinh đi dẹp giặc Chiêm Thành, qua sông Mã, thuyền đi đến khúc sông này cứ quay tròn, nhà vua cho rằng quanh khu vực tất có đền miếu thiêng bèn sai quân lính lên bờ dò hỏi thì quả nhiên có ngôi đền bên sông. Nhà vua làm lễ xin ngài cho đánh thắng giặc Chiêm. Sau đó thuyền đi xuôi nhẹ, lời thỉnh cầu linh nghiệm, giặc ngoại xâm bị phá tan. Trở về nhà vua ra sắc chỉ truyền cho dân làng sửa lại đền thờ ngài, chọn vị trí đẹp để chuyển đền về nơi yên tĩnh thờ tự, lại cấp cho 30 ngàn quan tiền để xuân thu nhị kì cúng tế. Vua cũng ban thưởng mấy chữ “Thượng đẳng phúc thần” để tôn thờ muôn thuở tại đền thờ Tham xung Tá quốc. Từ đó, đền được dời về vị trí hiện nay, còn khu vực ngài hóa gọi là Mả Tắt. Ngài được dân làng Đông Sơn tôn làm Đức Thánh cả. Đức Thánh cả là một trong Ngũ vị Thánh có công đánh giặc được dân thờ cúng, là 5 bố - con, anh - em ruột nhà Thái thú Lê Ngọc. Tín ngưỡng Thánh lưỡng ngũ vị được nhân dân Thanh Hóa thờ rộng rãi với 97 vị trí ở khắp nơi.

Ông Dương Đình Thọ, người giữ đình làng Đông Sơn. Ảnh: Nguyễn Xuân Thuỷ

Chúng tôi ghé thăm đình làng Đông Sơn. Trước đình là hồ bán nguyệt đỏ thắm hoa súng bên những cành đại già xám bạc. Từng phiến đá ong như chứng tích kể những câu chuyện từ thuở dựng làng, gọi tên những huyền tích về vị thành hoàng. Ông Dương Đình Thọ, thủ từ, nói với tôi, Đông Sơn theo cách giải thích truyền từ đời này qua đời khác với những người dân ở đây theo nghĩa là nhiều núi. Người Đông Sơn không ai không thuộc câu thơ: 99 ngọn núi bên Đông/ Còn ngọn núi Nít bên sông chưa về/ 99 ngọn núi đề huề/ Còn ngọn núi Nít chưa về bên Đông. Núi Nít theo cách giải thích của ông Thọ có nghĩa là “con nít” - đứa con lạc bầy. Nó chính là núi Ngọc bên kia cầu Hàm Rồng. Tương truyền ngày xưa, 100 ngọn núi quây quần bên nhau, nhưng khi sông Mã đổi dòng đã chia tách, đẩy ngọn núi Ngọc về bên kia sông. Và núi Rồng, nơi có yếu địa phong thủy Hàm Rồng ở bên này sông, vị trí sát dòng chảy. Xưa dòng chảy sông Mã ở hạ lưu khác vị trí bây giờ. Vào thời Nguyễn, một biến cố đã xảy ra khi một bè gỗ lim đến đoạn hạ lưu sông Mã bị chìm và kẹt ở đó, nó đã chắn dòng, khi lũ về, nước sông bị ngăn lại đã phá ra một dòng mới, là dòng chảy qua Hàm Rồng bây giờ, tách đôi núi Rồng và núi Ngọc. Không biết đó là ý trời hay là dòng chảy của lịch sử, khi dòng mới của sông Mã đã làm phát lộ chiếc trống đồng đầu tiên năm 1924, chạm vào mạch trầm tích để phát lộ một nền văn hoá.

*

*            *

Vẫn ông Nguyễn Vệ dẫn tôi đi dọc bờ sông Mã đến vị trí phát tích của chiếc trống đồng. Anh ruột của ông nội ông Vệ chính là người đã ghi tên vào lịch sử gắn với việc định danh một nền văn hóa - cụ Nguyễn Văn Nắm. Cụ Nắm chính là người tìm thấy chiếc trống gọi tên nền văn hóa Đông Sơn vào năm 1924. Rất nhiều tài liệu hiện tại, kể cả từ phía Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đều ghi nhầm tên cụ là Nguyễn Văn Lắm, có lẽ do phát âm chữ N thành L. Sự việc ấy diễn ra hơn 100 năm trước. Theo lời ông Nguyễn Vệ, cụ Nắm khi đó 34 tuổi, ham đánh bạc và đi câu. Cụ thường câu ở xứ Đồng Ra bên rìa làng, dọc sông Mã. Đây là phía lở, bờ sông dựng đứng, địa thế thuận lợi cho việc câu cá. Thế rồi buổi sáng đi câu ấy, cụ nhìn thấy ở bờ sông có một cái hõm ăn sâu vào nên soi đèn vào xem thì phát hiện ra một số đồ vật bằng đồng, trong đó có một chiếc trống hình trụ và một bộ ấm chén. Tất nhiên, cụ làm sao ý thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa đặc biệt của chúng. “Vừa rồi tôi đi hội nghị tôi bảo đừng tự đặt tên cho cụ, tên húy của ông nhà tôi là Nắm. Bốn anh em ruột của ông tôi tên lần lượt là Nắm - Mớ - Rụt - Rè. Tôi phải kể đủ 4 tên húy như thế để hội nghị không tranh cãi”. Ông Vệ bảo, họ nhà tôi mất gia phả rồi. Nhưng dù mất gia phả thì có những việc ông vẫn nhớ như in, bởi chính ông là nhân chứng. “Cụ nhà tôi phong lưu lắm. Cụ đi đánh bạc, thắng thì chở hàng thuyền tiền bạc của cải, đồ đạc về nhưng thua thì người ta đến, trong nhà có gì chở đi hết”. Vậy nên, sau khi tìm thấy trống đồng, cụ đã bán phắt cho viên thuế quan người Pháp. Tuy vậy, sau khi Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội lên tiếng về giá trị các cổ vật, chính quyền bảo hộ cũng cấp cho cụ giấy chứng nhận tìm thấy chiếc trống đồng này tại bờ sông Mã, nơi bến lở. Thế nhưng ngay cả tấm giấy ấy sau đó cụ cũng cầm cố để đánh bạc nốt. Dù thế thì sự việc ấy quá hiển nhiên, đã đóng đinh vào lịch sử mà không cần chứng nhận gì.

Những đồ vật bằng đồng cụ Nắm tìm thấy năm 1924 ấy đã được một người Pháp tên là L.Pajot mua lại. Sau đó, sự việc được báo lên Trường Viễn đông Bác Cổ và nhà khảo cổ Pajot được ủy nhiệm tiến hành khai quật ở Đông Sơn. Những cổ vật tìm thấy tại Đông Sơn được công bố vào năm 1929 đã gây tiếng vang lớn, thu hút sự chú ý của giới khảo cổ đương thời. Nhiều học giả đã xác nhận rằng các di vật đó thuộc về một nền văn hóa riêng biệt. Đặc biệt, năm 1933, học giả người Áo là R.Heine - Geldern đề nghị đặt tên nền văn hóa đồ đồng là văn hóa Đông Sơn. Kể từ đó, thuật ngữ văn hóa Đông Sơn được dùng phổ biến trên thế giới để chỉ thời kì văn minh đầu tiên của người Việt cổ, mốc thời gian ra đời của Nhà nước Văn Lang. Nền văn hóa ấy được đặt theo tên địa phương nơi phát hiện các dấu tích đầu tiên của nó. Và tên của ngôi làng nhỏ bên bờ sông Mã đã trở thành tên gọi của một nền văn hóa - Nền văn hoá Đông Sơn Lịch sử đã gọi tên làng.

Ông Nguyễn Vệ, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Nắm, người tìm thấy chiếc trống đồng đầu tiên tại Đông Sơn, gọi tên một nền văn hoá tại vị trí chiếc trống phát lộ bên bờ sông Mã thuở xưa. Ảnh: Nguyễn Xuân Thuỷ

Sau này, khi Đông Sơn kêu gọi đi xây dựng kinh tế mới, cụ Nguyễn Văn Nắm đã rời làng đi khai khẩn đất hoang, lập làng mới mãi trên huyện Như Thanh, mấy chục hộ lại đi mở đất như thuở Đông Sơn lập làng. Nhớ quê, nhớ làng, một phần vì ở Như Thanh không có nghề chơi, nghề câu cá, đánh bạc nên bạn bè vẫn rủ cụ Nắm về quê cũ. Nhà cũ không còn, mỗi lần về chơi cụ thường ở nhà em ruột Nguyễn Văn Mớ, ông nội ông Vệ, vì thế ông Vệ mới biết được nhiều chuyện từ người ông bác nội mình. Tấm giấy chứng nhận tìm thấy trống đồng do viên quan mà cụ Nắm nhớ tên phát âm tiếng Việt là Bang Tá của chính quyền bảo hộ kí đã trôi dạt trên những chiếu bạc chẳng biết đi về đâu, gia đình cụ cũng trôi dạt một lần nữa đi kinh tế mới vào Đồng Nai. Hậu duệ của cụ Nắm hiện sống tại TP. Hồ Chí Minh, không còn ai ở làng, ông Vệ là đời sau gần nhất còn sống ở Đông Sơn.

Vị trí tìm thấy chiếc trống đồng đặc biệt năm xưa hiện nằm trong khuôn viên Nhà máy phân lân Hàm Rồng. Ông Nguyễn Vệ xé hàng rào dẫn tôi đi dọc sông Mã, vạch cây cỏ um tùm để chỉ vị trí khai sinh nền văn hóa. Không có một dấu hiệu nào để nhận biết ngoài trí nhớ của ông. Dọc bờ sông này sau đó, những cán bộ khảo cổ đã về đào các hố khai quật và tìm thấy rất nhiều hiện vật quan trọng của thời đại đồng thau, tiếp tục chứng minh cho giả thiết về sự tồn tại của một nền văn hóa. Nhìn người cháu nội chi dưới của “nhà khảo cổ” bất đắc dĩ Nguyễn Văn Nắm hăm hở giới thiệu về vị trí phát tích trống đồng um tùm cỏ kề bên sông Mã, chẳng hề băn khoăn về việc nó dường như bị lãng quên, tôi như thấy lại phảng phất hình bóng tiền nhân. Không biết một trăm năm trước, khi chiếc trống đồng ngủ yên trong lòng đất nhiều thế kỉ hé mắt chào bình minh xứ Thanh bên nhánh sông mới, nước sông Mã màu gì! Năm 2024, anh Trịnh Văn Tuấn, khi đó là cán bộ Ban quản lí di tích Hàm Rồng cho tôi biết, theo công văn 396 của Thủ tướng Chính phủ thì vị trí bên bờ sông Mã có những hố khảo cổ ấy sẽ xây dựng công viên khảo cổ học. Tuy vậy, điều đó có vẻ vẫn quá xa vời khi mà dịp kỉ niệm 100 năm nền văn hóa Đông Sơn, mọi thứ bày ra trước mắt tôi vẫn hoang hoải chẳng khác gì 100 năm trước.

*

*         *

Đông Sơn thôn xưa thuộc Đông Sơn xã, Đông Sơn huyện, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa. Nay làng Đông Sơn thuộc phường Hàm Rồng, tỉnh Thanh Hóa. Khu vực Hàm Rồng được cho là một trong những huyệt đạo quốc gia gắn với truyền thuyết về cuộc chiến phong thủy giữa Tướng Cao Biền và ông Tả Ao. Người Hán thời kì trước rất giỏi về phong thủy, rất nhiều thầy địa lí đã đến Việt Nam mà Cao Biền là số một với nhiều câu chuyện li kì. Người ta quan niệm chỉ cần táng mộ vào đúng huyệt đạo hàm rồng thì hậu thế sẽ phát quan, và nếu bị yểm huyệt thì cũng gây ra nhiều hệ lụy. Bởi thế, vị trí hàm rồng từ xa xưa luôn được các triều vua phong kiến Việt Nam quan tâm đặc biệt. Trong động Long Quang trên núi Rồng vẫn còn những bài thơ của Vua Lê Thánh Tông, vua Lê Hiến Tông khắc trên vách đá bằng chữ Hán. Vua Lê Thánh Tông năm 1478 đã tức cảnh khi đến thăm động Long Quang, làm bài thơ có tên gọi Đề Long Quang động bằng chữ Hán, nay vẫn in sắc nét trên mặt đá.

Đất Đông Sơn đã chịu 6 lần mổ xẻ để tìm kiếm những thông điệp lịch sử từ năm 1954, khi miền Bắc hòa bình. Một lượng hiện vật lớn đã được tìm thấy đủ nói lên những tiếng nói về khoa học khảo cổ, đủ để gọi tên một nền văn hóa đánh dấu thời kì văn minh của người Việt cổ khởi phát tại đất này. Không gian của nền văn hoá ấy được xác định bao phủ trên một miền địa lí rộng, sang đến Thái Lan và Trung Quốc, nhưng cái nôi của nền văn hoá ấy nằm ở ngôi làng nhỏ Đông Sơn.

Tôi cùng Đại đức Thích Nguyên Phong và nhà nghiên cứu Hà Huy Tâm rảo bước dọc đường làng, giữa Đông Sơn hôm nay, từng tấc đất vẫn như rì rầm với tôi những câu chuyện của lịch sử, âm vọng mấy nghìn năm vẫn vi vút dưới chân người, đất ôm chứa tất cả, giữ lại tất cả và ngậm cười trước những lấp vùi tuế nguyệt. Những gì từng lớp đất nơi đây ôm chứa, cưu mang đã có cơ duyên hiển lộ, những ẩn mật đã được thắp sáng, lịch sử đã gọi tên làng. Và những câu chuyện hôm nay lại đang tiếp tục trên hành trình trở thành… chuyện cũ. Đông Sơn của hiện tại rồi sẽ lại trở thành một Đông Sơn của lịch sử.

N.X.T

 

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Khi tác giả là nguyên mẫu

Khi tác giả là nguyên mẫu

Trong thời gian này tôi cùng trung đội ở trên chốt rất gần địch. Trận địa tôi chỉ cách khu nhà hòa hợp chừng 1 cây số... (NGUYỄN TRỌNG LUÂN)

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)