Một Hà Nội ven sông

Thứ Tư, 19/08/2015 06:44

. NGUYỄN BẢO SINH
 
Người Hà Nội nào, khi qua cầu Long Biên cũng thấy cảm giác xao xuyến trong lòng như dòng sông Hồng cuồn cuộn dưới chân cầu.

Trước chiến tranh phá hoại, cầu Long Biên đẹp như con rồng uốn khúc qua sông Hồng. Ở đây ta thấy sự đồng cảm giữa vua Lý Thái Tổ khi rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, với kiến trúc sư người Pháp khi thiết kế cầu Long Biên. Kiến trúc sư sắt thép của tháp Eiffel lại nhập hồn với nét rồng bay phượng múa của tâm linh người phương Đông. Cuộc giao duyên kì ảo giữa Đông Tây, kim cổ đã sinh ra chiếc cầu Long Biên.

Đứng trên cầu Long Biên nhìn xuống bãi cát giữa sông, người Hà Nội thấy tâm hồn mình có gì trống vắng như thiên nhiên nơi này. Rồi đột nhiên ta tìm được tên để gọi cái trống vắng, hẫng hụt trên mom cát giữa sông: Đó là ngôi làng quê mà vì bảo đảm cho dòng chảy sông Hồng, người ta đã dỡ bỏ hết đi, nay chỉ còn bãi ngô xanh rì. Ngày xưa, khi mùa nước cạn, người Hà Nội chỉ xắn quần lội qua khe nước là được thưởng thức hương vị một làng quê ngay giữa thủ đô. Cái làng quê này cũng đủ cả cây đa, giếng nước, chùa làng cùng hương đồng, gió nội. Mỗi chiều, các thôn nữ gánh nước giếng, mấy mục đồng dắt trâu về trong tiếng sáo diều vi vu. Những con bò ngơ ngác ngắm chiếc máy bay bà già - máy bay cánh quạt hai thân cất cánh từ sân bay Gia Lâm trong buổi hoàng hôn êm đềm.

Cái làng xưa ấy, nay chỉ còn nương ngô, vạt khoai, giữa là một cái lều vịt liêu xiêu trong gió cát.

Ở mom cát này có một bãi tắm của nam giới mà ít người biết đến. Một số người Hà Nội hàng ngày đến đây tắm nude giữa thiên nhiên. Sau khi tắm xong, nước sông lạnh, gió sông mạnh, ai cũng thấy đói cồn cào. Họ tồng ngồng ngồi quanh một ngôi mộ bày đồ nhắm nhậu nhẹt thâu đêm. Ngôi mộ này là của một cô gái chết trôi. Đến khúc sông này thì xác cô cứ quay vòng. Dân làng nghĩ là thiêng, vớt xác cô vùi nông xuống doi cát. Rồi không biết từ bao giờ, có người nào đó, nặng duyên nợ đã xây lại ngôi mộ, chứ không còn sè sè nắm đất bên đàng như mả Đạm Tiên nữa.

Nhậu nhẹt bên nấm mồ của cô gái chết trôi, các nude nhân cảm thấy được sự hoà hợp giữa âm và dương, giữa thật và ảo, giữa ánh trăng lạnh lẽo ban đêm và chất men rượu rừng rực trong lòng.

Thuở 1947, ai đi qua cầu Long Biên cũng rợn. Đầu cầu là một bốt gác của lính lê dương, lính da đen rạch mặt trông như cột nhà cháy vác súng đi lại. Cái bốt ngày xưa dây thép gai rào chằng chịt hơn tơ nhện, một con chuột chạy vào không lọt, lổng chổng chỉ có những ống bơ vứt bừa bãi và những bao thuốc lá Cô-táp. Ai trông thấy đám lính Tây chả run như cầy sấy. Ngay cả đến loại anh chị bợm trạo cũng phải lảng thật xa. Dạo ấy các tay anh chị thanh toán nhau, nếu phe nào kéo bè đảng được với đám lính, tay cầm súng, thắt lưng giắt lựu đạn thì thắng là cái chắc.

 
images (6)

Cầm đầu băng đảng ở đầu cầu Long Biên và chợ Đồng Xuân là ba tên: Chào Mào, Mả Lươn, Tâm Ba Tai. Tên thật của Mả Lươn là gì thì không ai biết, chỉ biết ở bắp đùi tay này có chỗ bì dò, máu mủ chảy ra hôi thối không thuốc nào chữa được. Còn tay Chào Mào thì hay đội mũ của lính Chào Mào. Trong một cuộc tranh địa bàn hoạt động, hai tên đã thi nhau, ai dám chặt một ngón tay thì được làm đại ca. Trận đấu đó, Mả Lươn đã thắng. Nhưng Chào Mào không phục, gọi Tâm Ba Tai đến thi tài. Tâm Ba Tai đã rút dao cắt một miếng tai nướng tại chỗ để uống rượu nên gọi là Tâm Ba Tai. Tuy vậy, thế lực của ba tên xã hội đen vẫn chỉ là “tam quốc diễn nghĩa”.

Ta mới nói về chuyện quanh cái bốt gác dưới chân cầu Long Biên. Còn các mố cầu cũng rào dây thép gai chằng chịt sâu tận xuống dưới đáy sông. Đến tối đèn dưới chân cầu sáng rực để đề phòng Việt Minh phá cầu. Có lần bọn trẻ chúng tôi bơi ở bãi Phúc Tân, vì mải chơi lội đến tận chân cầu, đã bị lính Tây trên cầu bắn loạn xạ xuống, may mà không ai chết.

Suốt chín năm kháng chiến, chiếc cầu Long Biên, cái cổ họng này của Hà Nội được Pháp bảo vệ tuyệt đối an toàn.

Ngày10/10/1954, tên lính lê dương cuối cùng rút khỏi, vứt xuống dưới đường cho lũ trẻ con bao thuốc lá Cô-táp.

Còn bãi Phúc Tân thì không có một cái nhà nào, chỉ toàn là lau sậy và mía de - loại mía nhỏ hơn cây sậy. Dưới bãi có một số sân phơi vải nhuộm. Xưởng nhuộm nằm gần đồn Chợ Gạo. Đồn cảnh sát Chợ Gạo cũng trùm kín từ nóc nhà xuống là dây thép gai, trông như một con nhím khổng lồ. Dạo ấy trẻ con đều đói, chúng tôi thường xuống bãi lùng sục loại dưa lộn kiếp (loại dưa mọc lên từ hạt dưa lẫn trong phân người, phân chim muông, súc vật) chỉ ăn được vỏ, còn ruột thì đắng ngắt. Tụi tôi kiếm mía de ăn đến tướp cả lưỡi, tối về đau không nuốt nổi cơm. Đi sục dưới bãi Phúc Tân, thỉnh thoảng lại gặp chim sơn ca bất thình lình từ bụi sậy bay thẳng lên trời. Chim sơn ca hốt hoảng vừa bay lên vừa hót một thôi một hồi giữa trời xanh, nó bay cao đến khi mất hẳn giữa đám mây. Con đê Phúc Tân thời đó đẹp lắm. Hàng cây cơm nguội với những quả li ti tròn như viên bi may-ơ xe đạp, quả chín thì tím sẫm ăn hơi ngọt pha vị chát. Đặc biệt, cứ mỗi độ xuân về hàng cây này lại phủ một màu xanh non mát rượi. Bây giờ con đê đã san thấp để đổ bê tông, hàng cây cơm nguội thay bằng dãy lan can sắt rỉ.

Ngày xưa, từng đàn bò thong thả gặm cỏ trên đê. Trẻ con tung tăng thả diều. Ác nhất là hàng dây điện cao thế dưới vệ đê, đã bắt sống các loại diều treo lơ lửng để rồi mưa gió làm nát bươm, trông mà đau lòng. Sau đó, có một ông lão bán bánh mì, mặt phúc hậu, râu tóc bạc trắng dựng căn nhà đầu tiên dưới bãi Phúc Tân, đối diện với bóp cảnh sát Chợ Gạo, nay đã bán cho một ngân hàng nước ngoài xây cao ngất ngưởng cạnh trường Trần Nhật Duật. Bóp - đồn Chợ Gạo trông thẳng ra sông Hồng phía trái sát trường Trần Nhật Duật bao chằng chịt dây thép gai vì sợ Việt Minh tấn công.

Chợ Gạo trông sang phố Nguyễn Siêu là nhà tắm hương sen công cộng. Thời bao cấp được tắm hương sen là loại quý tộc nhất, còn tắm nóng lạnh như bây giờ chỉ là nằm mơ giữa ban ngày.

Chợ Gạo xưa là nhà thi đấu bóng bàn của Hà Nội. Hà Nội được chứng kiến những trận bóng bàn nổi tiếng nhất giữa cặp danh thủ số 1 Trung Quốc: Phó Kỳ Phương và Tiết Thủy Sơ gặp cặp danh thủ số 1 Việt Nam: Mai Văn Hòa và Trần Văn Đức. Trận đấu diễn ra ngang ngửa và tuyệt đẹp. Sau này, Mai Văn Hòa được thế giới công nhận là đệ nhất danh thủ bóng bàn. Chẳng hiểu vì sao ngày xưa người Hà Nội chơi thể thao chỉ nghiệp dư, mọi người tự bỏ tiền túi ra tập vẫn đạt thành tích tuyệt vời.

Ngành bóng bàn Hà Nội nhớ mãi tuyển thủ Lê Tất Cử được bầu là “ông vua cò cử”. Suốt trận đấu, không bao giờ Lê Tất Cử tấn công, chỉ cò cử thôi. Ngày xưa, mỗi tuyển thủ bóng bàn đều có lối đánh riêng. Ngày nay, tất cả các tuyển thủ đều đánh giống nhau. Phải chăng cũng vì thế mà ta không tiến được.

Chỗ phố Trần Nhật Duật của xưởng nước mắm Vạn Vân, mặt sau thông với ngõ Thanh Hà, Thanh Hà thông với chợ Bắc Qua, nơi này tập trung xã hội đen mạnh nhất của Hà Nội ngày đó.

Cánh ăn cắp vặt chuyên đi xích lô không trả tiền bằng cách bảo xích lô chờ ở cửa vào nhà lấy đồ, rồi thông qua ngõ Thanh Hà mất tích. Xích lô có chờ ở cửa đến mùa quýt cũng không gặp.

Từ cầu Long Biên, qua Trần Nhật Duật rẽ vào là thấy ngay cổng Ô Quan Chưởng sừng sững, uy nghi. Đứng ở phía đê Trần Nhật Duật, lòng người cứ thấy trống trải lo lo thế nào ấy, chỉ khi đi qua cổng Ô Quan Chưởng, tự nhiên lòng ta mới thấy tĩnh. Ta có cảm giác cổng Ô Quan Chưởng như một sự đảm bảo vững chắc che chở thân tâm mình. Khi nổ ra cuộc kháng chiến toàn quốc, 48 ngày đêm Hà Nội chìm trong khói lửa mà Ô Quan Chưởng gần như không bị phá hoại. Bên thành cổng chỉ lỗ chỗ những vết đạn súng trường, mà sau đó là chỗ cư trú cho nhái bén và thằn lằn, hoặc cây dương xỉ mọc lên.

Thời ấy, cổng Ô Quan Chưởng không có ai bảo vệ, cũng đã bị chung quanh lấn chiếm. To gan nhất là ông Kiểm, thợ giặt là sát cổng, đã đục tường lấy Ô Quan Chưởng làm chỗ phơi quần áo.

Trước mặt cổng Ô Quan Chưởng là phố Hàng Nâu, phố này ngày xưa bán củ nâu để nhuộm quần áo. Ngày xưa toàn quần nâu áo vải, nên bán nâu chạy lắm. Cái bà bán nâu bên số chẵn cạnh cổng Ô Quan Chưởng mấy năm gần đây vẫn giữ nghề bán củ nâu để nhuộm vó, lưới. Giữa phố có cửa hàng bán nâu của bà San. Sau đó chẳng hiểu sao phố Hàng Nâu đổi thành phố Ô Quan Chưởng. Thời đó, hỏi phố Ô Quan Chưởng người Hà Nội không biết, phải gọi là phố Hàng Chiếu thì mọi người mới biết.

Ngày ấy cách đánh số nhà thì theo quy luật của sông. Nghĩa là cứ xuôi theo dòng nước sông chảy để tính số nhà. Như phố ngang sông Ô Quan Chưởng thì sát sông là số 1. Nhà số 1, phố Ô Quan Chưởng kề với trường Trần Nhật Duật. Thời 1946 ngôi trường này gọi là trường Ke vì nó ở sát với ke đê sông Hồng. Trong ngày toàn quốc kháng chiến, trường này đã diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa Việt Minh và Pháp, cho nên gần như sập đổ hoàn toàn. Thời đó từ trường Ke, Việt Minh đục tường thông qua phố Chợ Gạo sang phố Đào Duy Từ.

Khoảng năm 1950, Mĩ viện trợ cho Pháp xây dựng lại trường Ke. Cổng trường Trần Nhật Duật đề cái biển to có vẽ quốc kì Mĩ, với hàng chữ: “Mĩ quốc viện trợ”.

Thời Hà Nội bị tạm chiến, toàn dân đều hướng về kháng chiến và hàng ngày nhìn lính Pháp đi lại trên đường phố bằng con mắt căm thù. Trong trường Trần Nhật Duật có một thầy giáo tên là Chân mà học trò rất ghét vì thầy chửi Việt Minh là tụi trộm cắp vặt, hèn hạ, dã man. Cổ thầy cao, mặt thầy nhỏ, học trò thường đặt hỗn danh là thầy ngỗng cổ cò. Thầy đánh học trò rất ác. Thầy dùng thước kẻ lim vụt vào mu bàn tay học trò đến toé máu, dầm xương.

Ngôi trường tiểu học nổi tiếng thời đó là trường Nguyễn Du, hiệu trưởng là thầy Mai Đình Niên, thầy mặt vuông rất phúc hậu. Thầy luôn tỏ lòng hướng về kháng chiến, căm ghét Tây, học trò quý thầy lắm. Thời ấy, quý thầy từ tâm chứ không bao giờ có chuyện quà cáp biếu xén như ngày nay. Sát ngay lớp học của trường, đối diện với Viện Văn học ngày nay là phòng tra tấn cộng sản của mật thám Pháp. Nhiều lúc thầy giáo, học sinh nghe thấy cả tiếng rên rỉ, giãy giụa thảm khốc của các tù nhân. Có lần, vào dịp Quốc khánh 2/9, Việt Minh buộc cờ đỏ sao vàng vào chân chim bồ câu bay khắp Hà Nội, thầy hiệu trưởng cho học sinh ra xem thoải mái. Cảnh sát Pháp phải nhờ hiến binh mang súng bắn đạn ghém mới hạ sát được đàn chim này.

Học sinh trường Nguyễn Du không quên cảnh bị hành hạ khi nhà trường phát cho một cái cờ ba que, và một chiếc bánh mì không nhân, chờ đón thủ tướng Nguyễn Văn Tâm từ sáng tới trưa, mệt và chán khủng khiếp.

Bên cạnh trường Nguyễn Du có một ông tàu mặc áo đen bán món nộm thịt bò khô. Hàng nộm thịt bò khô rất đơn giản, chỉ một cắp tay là coi như đủ cả cửa hàng. Món dấm ông Tàu Đen pha thật độc đáo, ăn một lần ngon cay đến chảy nước mắt. Chỉ cần trông thấy ông Tàu Đen giơ chiếc kéo bật tanh tách, học sinh đều tứa nước miếng.

Sau Hà Nội giải phóng, ông Tàu Đen về bán tại ngõ Gia Ngư, cạnh cái nhà vệ sinh công cộng mùi xú uế nồng nặc. Cái thời bao cấp coi chuyện bán hàng là gian thương thì ông Tàu Đen chỉ còn cách bán hàng cạnh nhà xí, mà là nhà xí gần như lộ thiên, mọi nhà xí công cộng đều là chỗ tự do ngôn luận, tự do báo chí, thích vẽ bất cứ cái gì bậy bạ thì tuỳ ý, bậy bạ đâu chỉ có dương vật và âm hộ.

Nghĩ cũng kinh, ông Tàu Đen bán nộm thịt bò khô bên cạnh hố xí lộ thiên mà khách vẫn đông như kiến vì thời đó dân quá đói.

Một số học sinh trường Nguyễn Du ngày nay tìm bằng được ông Tàu Đen ăn nộm thịt bò khô còn để kỉ niệm thời học trò.

Đối diện với phố Trần Nhật Duật là nhà thổ cao cấp: nhà số 2, phố Ô Quan Chưởng. Nhà thổ này lưng quay ra phố Trần Nhật Duật, cửa mở về Ô Quan Chưởng. Đây là nhà thổ cao cấp nên toàn khách sang trọng cả Tây lẫn ta. Các cô gái điếm buồn sang chơi nhà hàng xóm, nhưng mọi người đều lảng tránh. Hoa hậu cave lúc đó có lẽ là cô Xuân. Cô Xuân đẹp lắm, mặt hiền lành phúc hậu, không hiểu kiếp trước thế nào mà kiếp này cô lại ra nông nỗi vậy. Cô đi đâu là cánh đàn ông lấm lét thèm thuồng nhìn theo. Dạo ấy cave ăn mặc kín đáo lắm, chỉ có chiếc quần sa tanh trắng trong đó lờ mờ chiếc xilíp đỏ là khiêu dâm thôi. Mặt mũi cave cũng không tô mắt xanh mỏ đỏ như bây giờ. Nhà thổ ngày xưa cũng có biển hiệu của nhà thổ sơn màu đen hắc ín. Các cô cave hàng tháng đều được đi khám bệnh lục xì. Nhà hàng có kinh doanh môn bài hợp pháp đàng hoàng.

Mụ chủ chứa người đẫy đà như Tú Bà, nhưng da dày và đen chứ không lờn lợt màu da. Còn con mụ là một thanh niên tuấn tú nhưng hom hem vì mắc bệnh giang mai, do đau ở hạ bộ nên đi đứng khệnh khạng. Thời đó không có bao cao su nên khách làng chơi cũng như cave thường mắc các bệnh xã hội gọi là cù đinh thiên pháo.

Năm 1947, phố Ô Quan Chưởng chỉ có một vài ngôi nhà. Còn thì đều bị đổ nát và bọn thổ phỉ đi hôi của khắp nơi.

Thuở ấy, thành phố đi ngủ sớm lắm. Khoảng 18 giờ là thiết quân luật, múi giờ ngày ấy theo múi giờ Bắc Kinh, bây giờ ta chỉnh lại chỉ là 17 giờ. Xe quân sự Pháp chạy như xé gió. Lính Pháp chĩa súng ra thành xe, cứ thấy bóng người là nã súng như điên. Bọn thổ phỉ đêm khối đứa đi hôi của bị trúng đạn, sáng hôm sau mới được dọn xác đem đi chôn.
Đến 20 giờ là tất cả Hà Nội chìm vào giấc ngủ, thỉnh thoảng một phát súng ngắn nổi lên, mọi người trong nhà lại giật mình sợ hãi trùm chăn kín đầu.

Nếu gia đình nào có người bị cấp cứu, như đi đẻ thì phải bố trí ba đèn bão, người đi trước nạn nhân cầm một cái, người khênh nạn nhân cầm một cái, người đi sau cách ba mét cầm một cái, mỗi người đều phải cầm đủ giấy tờ thông hành để hiến binh kiểm tra.

Cuối phố Trần Nhật Duật, ở giữa ngã năm có một cái cột đồng hồ. Đối diện phía cột đồng hồ là trường mẫu giáo Long Hưng trong ngõ Phát Lộc. Trường mẫu giáo đặt trong chùa. Thời ấy trẻ con đẻ ra muốn khai sinh lúc nào cũng được, khai dôi ra 10 tuổi hoặc bớt đi 10 tuổi cũng chẳng sao. Thường thì lớp con em công chức khai ăn gian bớt hai tuổi sẽ có lợi cho việc hưởng lương. Còn về mục vợ thì được quyền khai bao nhiêu cũng hợp pháp. Đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng.

Ta theo Nho giáo, đạo lí nam nữ thụ thụ bất thân thời đó nghiêm lắm. Dù trẻ con thì học sinh nam cũng học riêng. Tiểu học, trung học thì học ở trường Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An. Còn nữ thì học ở trường Thanh Quan, Trưng Vương. Chỉ có từ sau ngày giải phóng 1954, trai gái mới học chung như ngày nay.

Các nam học sinh nếu có ân oán giang hồ thì gọi nhau ra cột đồng hồ phố Trần Nhật Duật chân cầu Chương Dương đánh nhau tay không một trận. Nếu kẻ nào dùng vũ khí coi như phạm luật sẽ bị coi là xã hội đen, bạn bè xa lánh. Thời đó, có câu thành ngữ về luật phân huynh đệ: “Một chọi một ra cột đồng hồ”. Cách giải quyết này cũng na ná kiểu đọ súng của giới quý tộc châu Âu xưa.

Thời những năm 1950, dọc đê sông Hồng, từ cầu Long Biên đến nhà Bác Cổ, tối đến đèn bật sáng là các loại dế mèn, dế cụ, cánh cam, cánh quýt, cà cuống, các loại muỗi, dơi bay quanh các ngọn đèn điện. Trẻ con ngước mắt nhìn lên đèn đường chuẩn bị đón bắt những con vật quý ấy. Quý nhất là loại cà cuống. Cà cuống bay sà xuống như máy bay hạ cánh. Khi tiếp đất, cà cuống nằm ngửa. Nếu ta vồ ngay sẽ bị cà cuống đốt như ong. Ta cần chờ cho cà cuống lật ngược lại, ta ấn lưng nó xuống đất rồi nhấc lên sẽ an toàn tuyệt đối. Cà cuống có hai loại: cà cuống thịt và cà cuống cay. Cà cuống thịt không có bọng cay, không có giá trị. Cà cuống cay, có tinh dầu thơm, pha vào nước chấm thì cực ngon. Dế cụ thì bay quanh ngọn đèn bỗng bổ nhào xuống để hạ cánh. Bắt dế cụ ta phải nhanh chóng chộp vào lưng, rồi hai tay cặp vào nách cánh, nếu để tay phía trước sẽ bị cắn, để tay phía sau sẽ bị càng có gai đá rách tay. Còn cánh cam, cánh quýt, bọ dừa khi hạ cánh thì nằm quay đơ. Muốn bắt kiểu gì cũng được. Vấn đề chính là ai đón đúng hướng rơi để bắt được con vật yêu thích, vì trẻ con tranh nhau ác liệt lắm. Đội bắt cà cuống nhà nghề thì sáng sớm, độ năm giờ, đi một quệt từ cầu Long Biên, tới nhà Bác Cổ, mò ở hai bên cống sẽ bắt được hàng trăm con. Sao độ ấy nhiều cà cuống đến thế. Nằm dưới cống, cà cuống thường nấp sau chỗ có nhiều lá. Mò cà cuống phải khéo léo bắt ngang lưng, kẻo bị đốt thì khốn.

Sau đó mang cà cuống ra chợ Đồng Xuân bán. Dạo ấy cà cuống rẻ như bèo. Bán trăm con cà cuống chỉ mua được bát phở. Ngày nay một con cà cuống đủ để mua ba bát phở. 

N.B.S

 
 
 
 
 
VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)