. TRÌNH QUANG PHÚ
I
Từ ngày người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến sông Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước đến khi về lại trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam là tròn 30 năm (1911 - 1941). 30 năm bôn ba, thành phố Paris nước Pháp là nơi Người ở nhiều nhất, chỉ tính từ năm 1917 khi từ Anh về lại Paris, Bác đã ở đó trên 2.000 ngày (6 năm).
Tôi có thời gian công tác ở Paris nên muốn tìm và viết về những nơi Bác Hồ đã ở để hoạt động. Người đầu tiên tôi bày tỏ ý định này là chị Thu Trang, tiến sĩ sử học Pháp. Chị tên thật là Công Thị Nghĩa, từng là hoa hậu Sài Gòn, hoạt động điệp báo trong lòng địch, bị bắt bỏ tù, được luật sư Nguyễn Hữu Thọ cãi trắng án trước tòa. Chị Thu Trang đã 75 tuổi nhưng vẫn giữ được nét trẻ đẹp, vui tươi, thùy mị của người phụ nữ Việt Nam. Khi biết ý định của tôi, chị rất vui. Chị tặng tôi những tác phẩm mình nghiên cứu về Bác Hồ ở Paris, cung cấp một số tư liệu cho tôi.
Năm 1911 là thủy thủ với tên Văn Ba, lần đầu tiên Bác đến cảng Marseille nước Pháp. Tàu Amiral La Touche Tréville tiếp tục đưa Bác về miền Bắc, cảng Le Havre, lớn thứ hai nước Pháp. Lênh đênh khắp thế giới, Bác qua châu Phi, Mĩ, Anh. Những năm ở Anh, Bác liên lạc được với cụ Phan Châu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, những người sáng lập ra Hội Đồng bào thân ái, Bác quyết định đến Paris để hoạt động.
Năm 1917, Bác ở nhờ nhà luật sư Phan Văn Trường, số 6 Villa des Gobelins, Quận 13, gần Place D’Italia. Đó là một ngôi nhà nhỏ, yên tĩnh. Cụ Phan Châu Trinh đang ở đây hành nghề tiệm ảnh để hoạt động. Bác ở trên căn gác xép hẹp, lúc đầu học và làm nghề sửa ảnh với cụ Phan để sinh sống. Sau 6 năm bôn ba góc biển chân trời, Bác đã ở ngay thủ đô nước đang cai trị dân tộc mình. Đặc biệt, được ở cùng với nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, sinh hoạt trong Hội Đồng bào thân ái, Bác như được trở về giữa lòng đồng bào. Năm 1911, trước khi cụ Phan rời Sài Gòn sang Pháp, Bác đã cùng cụ thân sinh đi Mỹ Tho gặp cụ Phan. Đồng chí Vũ Kỳ, thư kí của Bác trong lần làm việc với Bảo tàng Hồ Chí Minh ngày 2/3/1993 có nhắc lại lời Bác: “Mình biết cụ Phan từ trong nước rất sớm vì cụ là bạn thân của cha mình. Lúc đi Pháp là dựa vào cụ. Ở Pháp cũng dựa vào cụ để sống và hoạt động”. Có thể nói phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế cao ở miền Trung, dù không thành công nhưng đã gây được ý thức sâu sắc về lòng căm thù thực dân, chống áp bức… nó tác động, giục giã sự ra đi tìm đường cứu nước của Bác. Bác biết rõ cụ Phan một lòng vì dân tộc, vì đất nước, được sống chung với cụ như một gia đình giữa đất Pháp là sự may mắn hiếm có. Chính từ căn gác nhỏ này, Bác viết bản yêu sách 8 điểm đòi tự do độc lập cho Đông Dương. Ngày đó, Bác nói tiếng Pháp thạo nhưng viết chưa tốt lắm. Yêu sách 8 điểm viết bằng tiếng Việt được cụ Phan đóng góp và luật sư Trường dịch ra tiếng Pháp, kí tên Nguyễn Ái Quốc. Tên Nguyễn Ái Quốc được Bác dùng từ khi kí bản yêu sách nổi tiếng này. Chị Thu Trang đưa cho tôi đoạn trích từ hồ sơ mật thám Pháp: “Nguyễn Ái Quốc là linh hồn của tờ Người cùng khổ, ông ta sống ngay trong “văn phòng” số 3 đường Marche des Patriarches và cũng là nơi ông ta sử dụng đồ đạc thành một chiếc giường gập lại cùng 3 vali giấy tờ”. Theo chị, Bác đã viết bản yêu sách tại đây. Sau khi tranh luận chúng tôi thấy rằng: Tại số 3 đường Marché des Patriarches là trụ sở, là nơi gặp gỡ của Bác với các Việt kiều và các bạn châu Phi, nhưng viết bản yêu sách ở số 6 Villa des Gobelins.
Lâu đài Versailles ở Paris với cung điện nguy nga có vườn thượng uyển rộng 815ha, là lâu đài lớn và đẹp nhất châu Âu. Di sản văn hóa thế giới này xây từ năm 1623. Ngoài cung điện lộng lẫy đồ sộ, Versailles nổi tiếng bởi hệ thống 65 hồ nước mênh mông làm nổi bật những hoa cảnh của cung tình yêu và vườn vua chúa. Tôi đứng giữa tượng đồng vua Louis 16 cưỡi ngựa và pho tượng Nữ thần tình yêu ở công viên tráng lệ của lâu đài này để mường tượng xem người thanh niên 29 tuổi Nguyễn Ái Quốc năm ấy đi vào lối nào, chờ ở đâu khi đến hội nghị quốc tế đang họp ở đây để gởi bản yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho Việt Nam, Campuchia và Lào. Tôi nhìn tượng vua Louis16 sừng sững mà như thấy dáng dấp của Bác những năm ấy.
Một tài liệu lưu giữ ở Pháp ghi lại những câu trả lời của Bác với một phóng viên Mĩ đầu tháng 9/1919:
Hỏi: Anh đến Pháp với mục đích gì?
Đáp: Để đòi quyền tự do cho dân An Nam.
Hỏi: Bằng cách nào?
Đáp: Làm việc hết mình và luôn hăng hái tiến lên.
Hỏi: Từ lúc đến Paris, anh đã làm đuợc gì?
Đáp: Tôi gặp những nghị sĩ, những bạn chịu giúp chúng tôi. Các nghị sĩ, các người xã hội nghĩ rằng Chính phủ Pháp không chấp nhận yêu cầu của tôi, nhưng họ nói sẵn sàng giúp đỡ. Thay đổi nhận thức là quan trọng. Ở đây tôi hoạt động trong những tầng lớp khác nữa.
Đúng như vậy, những hoạt động trong 2 năm đầu của Bác đã gây tiếng vang lớn không chỉ ở Pháp mà ở cả Việt Nam và thế giới. Vượt trên hiểm nguy và sự kiềm tỏa của mật thám Pháp.
Chúng tôi tìm đến ngõ Impasse Compoint, năm 1920 một đồng chí trong Đảng Cộng sản Pháp đã giúp Bác thuê căn hộ ở trên gác nhà số 9 nơi đây. Nó gần tiệm ảnh Lena nơi Bác làm công để có tiền và hoạt động, sau nữa, nó yên tĩnh, ít người chú ý. Trong thời gian ở đây, Bác đã tham dự Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920, hoạt động tích cực trong Hội Liên hiệp các nước thuộc địa, Hội Người An Nam yêu nước, làm báo, thợ sửa ảnh… Tại căn nhà này, Bác đã tiếp nhiều người yêu nước, trong đó có Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh đang học tiến sĩ ở Trường Sorbonne đã bỏ ngang đi hoạt động trong phong trào yêu nước cùng với Bác và cụ Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường. Họ hoạt động sôi nổi, tâm giao, được mọi người thời đó gọi là nhóm Ngũ long. Ngõ Compoint in đậm những kỉ niệm về “Năm con rồng” yêu nước này.
Tôi may mắn được đến thăm phòng Bác tại nhà số 9 và được gặp bà chủ nhà. Căn buồng ở tầng 3 trông hơi vuông vức, mỗi bề 3m, chiếc giường nhỏ kê sát tường, đầu giường có một chiếc tủ gỗ để đựng quần áo. Một chiếc bàn gỗ cũ thô, một đèn bàn xưa và một ghế mộc. Bác đã ngồi ở đây, bên chiếc bàn này để sửa ảnh, đọc, viết. Một khung cửa sổ nhỏ nhìn ra tường gạch nhà bên, có gió nhưng không thấy trời xanh. Mùa đông ở đây lạnh, có ngày tuyết rơi Bác phải dùng một cục gạch gởi trong lò sưởi chủ nhà cho nóng rồi bọc giấy báo bỏ trong chăn để sưởi ấm. Cũng tại đây, căn phòng nhỏ này, Bác đã đọc được Luận cương Lenin về giải phóng thuộc địa và reo lên “Đồng bào ơi, đây là cái cần thiết cho chúng ta!”.
Anh Xuân Thủy khi là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris về Việt Nam đã đến thăm căn phòng này và đã làm bài thơ Thăm ngõ Công Poanh. Ngôi nhà này hiện không còn nữa, năm 1983 đã bị đập phá để xây lại. Các bạn Đảng Cộng sản Pháp gắn tại đây tấm bảng đồng ghi bằng tiếng Pháp, dịch ra là: Nơi đây từ năm 1921 đến 1923 Người đã sống và tranh đấu cho độc lập của nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức khác, Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh. Tháng 1/1983. Vùng này trong nhiều thập niên do Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo,vì thế, khi nhà số 9 ngõ Compoint bị đập bỏ, từ căn phòng Bác ở họ đã lấy cánh cửa chính, cửa sổ, giường nằm, cái tủ đứng, labo rửa mặt, khung kính nhỏ và bàn nhỏ Bác dùng làm việc đưa về phục dựng nguyên dạng ở tầng 2 trong bảo tàng lịch sử Montreuil ngoại ô Paris. Bảo tàng lịch sử sống nằm trong công viên Montreau to rộng sát sông Seine êm đềm. Ngay trung tâm đầy hoa, nước Pháp đã dựng tượng Bác, một pho tượng đồng bán thân, phía sau là cây đào Pháp bông tím, gợi bóng dáng Hà Nội, dưới chân tượng là những thảm hoa tulip rực rỡ. Một dòng chữ bằng tiếng Pháp khắc trên chân đế: Héros de Labération Nationale et Eninent homme de Culture du VietNam (Président HoChiMinh 1890 - 1969) (Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890 - 1969, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam).
Đảng Cộng sản Pháp trân trọng Bác không chỉ vì Bác là lãnh tụ Việt Nam, nhà văn hóa của nhân loại mà còn là người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920.
*
* *
Chúng tôi muốn nhắc đến nhà 16 đường Sainte-Severin, nơi Bác sáng lập tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) và Hội liên hiệp các nước thuộc địa. Theo tiến sĩ Thu Trang, nơi đây ngày xưa là một góc phố nghèo khổ, nơi cư ngụ của dân các nước thuộc địa. Nhà 16, hiện tại là một cửa hàng ăn uống lớn, đẹp, đông đúc. Tôi ngồi ở đây và nghĩ đến những ngày Bác tới lui làm việc. Ngay giữa thủ đô nước Pháp trong những ngày đen tối nhất, Người dũng cảm, gan góc, ra một tờ báo bằng tiếng Pháp để nêu thực trạng ở Việt Nam, đòi độc lập dân tộc cho Tổ quốc, gióng lên hồi chuông hồi trống cảnh tỉnh lay động lòng người, là tiếng kèn tập hợp nhân dân đoàn kết đấu tranh, là những quả bom nổ ngay giữa thủ đô nước Pháp thời ấy.
Ngay khi báo mới ra những số đầu tiên, tháng 3/1924, mật thám Pháp đã có báo cáo: “Báo Le Paria có mục đích tố cáo những hành động lạm dụng chính trị, độc đoán về hành chính, sự bóc lột về kinh tế mà những nạn nhân là dân chúng trong những vùng rộng rãi ở hải ngoại (chỉ các nước thuộc địa Pháp). Báo cũng kêu gọi họ tập trung lại để đấu tranh cho những tiến bộ về vật chất và tinh thần, mục đích giải phóng khỏi bị áp bức(1).”
Với việc ra đời báo Người cùng khổ Bác trở thành nhà báo đầu tiên của cách mạng Việt Nam và ghi nét son cho lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
*
* *
Tôi tìm thăm thư viện Sainte Geneviève (gọi tắt là SG) nằm cạnh điện Panthéon, nơi thờ các vị thần linh, có phần mộ của người lập nền Cộng hòa Pháp, các đại văn hào, nhà khoa học lớn như Victor Hugo, Marie Curie, Voltaire Duma… Ngày xưa Bác Hồ đã nhiều lần đến đây nghiêng mình trước các vĩ nhân và đọc, nghiên cứu. Bác từng nói: Thư viện là kho di sản nhân loại.
Tài liệu mật thám Pháp ghi: “Từ 8h 55p đến 12h 13p và từ 13h 10p đến 13h 50p Nguyễn Ái Quốc ở thư viện Sainte-Geneviève. Sau đó đến vườn hoa Luxembourg để dạo chừng nửa giờ như đang chờ đợi ai.” Một trích dẫn khác khẳng định rằng: “Thường thường, ông Nguyễn chỉ làm việc nửa ngày, làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến, ông đi dự mít tinh ở Paris.”
Từ nhà số 10, của thư viện SG nằm bên cạnh, song song với thánh điện Panthéon, theo con đường Sougglot chúng tôi đến công viên Luxembourg nằm bên bờ sông Seine. Công viên đầy hoa thắm, cỏ mịn dưới những tán cổ thụ sum suê như một vườn thượng uyển rộng đến 15ha được xây dựng từ năm 1612. Công viên nổi tiếng bởi to rộng và sự phức hợp các loài cây, đặc biệt có khu vườn với 200 loại táo lê khác nhau, nhiều cây cổ thụ trên 100 năm tuổi với nhiều loài chim cư trú. Công viên có vườn tượng các hoàng hậu, hồ nước nhân tạo xây từ 100 năm trước. Đặc biệt lâu đài của hoàng hậu Médicis trong vườn ngày nay là trụ sở của Thượng viện (Sénat) Pháp rất nguy nga lộng lẫy. Lững thững dưới tán rừng, chúng tôi tưởng tượng ra lối mòn Bác đã đi, suy ngẫm thế sự. Công viên, thư viện, điện Panthéon là nơi cho Bác những tư duy, những thông tin, kiến thức về con đường cứu nước. Bác đã đón các tư tưởng lớn, gặp hồn các vĩ nhân thế giới. 6 năm ở Pháp là quãng thời gian quyết định cho cuộc đời hoạt động của Bác, là bước khởi đầu một cuộc cách mạng, một cuộc trường chinh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Chính ở thư viện này, Bác đã đọc được tin Cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra chân trời cách mạng trong Bác…
Chúng tôi không quên đến số 8 đường Danton, nơi ngày xưa Bác và cụ Phan Chu Trinh hay đến dự các buổi bình thơ, gặp gỡ “Những người thông thái”. Bác còn tham gia các nhóm thơ ca, nhóm sáng tác. Phải chăng từ đây đã hun đúc trong Bác tài năng về thơ để sau này viết nên Nhật kí trong tù, tác phẩm thơ chữ Hán kiệt xuất.
II
Tại Paris, có một nơi ghi lại rất nhiều dấu ấn của Bác từ những năm tháng đó. Đấy là tàng thư lưu ở thư viện, bảo tàng. Nhưng đậm nhất, rõ nhất là tài liệu mật của mật thám Pháp nay đã được giải mật.
Một điều thú vị, đọc tài liệu của mật thám Pháp càng thấy rõ hoạt động và ý chí của Người. Những tài liệu từ 100 năm trước, nay trở thành những chứng tích lịch sử qúy hiếm. Xin trích dưới đây một số đoạn nhật kí theo dõi của mật thám Pháp trong tháng 12/1919.
Ngày 14/12/1919
Nguyễn Ái Quốc nhận được thư của tòa soạn báo L’Humanité.
Hồi 10h 30p, Quốc đến nhà thợ may Charon ở 8 Bis phố Gobelins, hai người đi uống ở quán rượu số 1 phố Gobelins. Sau đó đi tàu điện ngầm đến trụ sở báo La Dépêche Coloniale.
Trở về nhà lúc 12h 45p. Hồi 13h 15p, Nguyễn Ái Quốc lại ra khỏi nhà và mất hút phía Quảng trường Italia.
Gần 17h 30p, mới thấy về nhà và 15 phút sau lại đến nhà Charon.
Hồi 20h 30p, Nguyễn Ái Quốc đi bỏ thư tại phòng bưu điện phố Gobelins.
Ngày 15/12/1919
Nguyễn Ái Quốc nhận được một thư dán tem từ ga Paris du Nord.
Lúc 10h 50p, Quốc ra khỏi nhà, mua một tờ L’Humanité. Sau đó đến thư viện Sainte Geneviève, ở đó đến 11h 55p, rồi đi dạo ở vườn hoa Luxembourg.
13h, Nguyễn Ái Quốc trở lại thư viện, ở đó đến 16h, rồi lại đi dạo 20 phút ở vườn hoa trước khi về nhà.
19h, Nguyễn Ái Quốc đến nhà số 16 phố Fosse Saint Bernard. Lát sau, cùng với Verdegene đến quán rượu ở cùng phố.
20h 10p, Nguyễn Ái Quốc về nhà.
Ngày 16/12/1919
Lúc 14h 35p, Nguyễn Ái Quốc và Ai Cam (một thợ ảnh đã đến nhà Nguyễn Ái Quốc ở mấy ngày), rời nhà, đến phòng bưu điện ở phố Claude Bernard tra bộ Niên giám Paris, rồi đến hiệu sách Toranh mua một quyển sách. Sau đó đến một nhà chuyên đánh máy chữ ở số 27 phố Claude Bernard thuê sao lại bài viết nhan đề Chính trị Đông Dương.
Nguyễn Ái Quốc và Ai Cam còn đến các địa chỉ sau đây:
- Nhà ông Louis Blanchard, bán tranh ảnh, ở 40 phố Écoles - Hiệu giầy L’ Incompara
- Quán ăn Franco Chinois ở 11 bis phố Carmes
- Trụ sở báo La Dépêche Coloniale
- Nhà số 22 phố Châteaudun.
Lúc 17h 10p, Nguyễn Ái Quốc và Ai Cam rời nhà số 22 phố Châteaudun xuống ga tàu điện ngầm Le Peletier.
Ngày 17 tháng 12 năm 1919
Nguyễn Ái Quốc rời khỏi nhà lúc 9h 45p, đi đến thư viện Sainte Geneviève.
14h 15p, ra khỏi thư viện, đến Trụ sở Hạ Nghị viện ghi giấy xin gặp Marcel Cachin.
15h 45p, rời lâu đài Bourbon mua một tờ Journal Officiel rồi về nhà.
Cùng ngày, Nguyễn Ái Quốc còn đến văn phòng của hai tờ báo L’ Humanité và Le Populaire hỏi việc làm nhiếp ảnh cho Phan Châu Trinh.
Ngày 18/12/1919
Buổi sáng, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi nhà lúc 10h, đến thư viện Sainte Geneviève.
11h 50p, rời thư viện đến hiệu ảnh Panthéon rồi đến hiệu sách Lachon et Renouf mua một quyển sách, sau đó trở lại thư viện.
14h 30p, Nguyễn Ái Quốc đến Hạ nghị viện xin gặp Marcel Cachin; 25 phút sau, rời địa chỉ trên và đi dạo. 16h 30p, Nguyễn Ái Quốc mất hút trong đám đông ở gần Cung điện Louvre.
17h 35p, Nguyễn Ái Quốc về đến nhà.
Buổi tối, Nguyễn Ái Quốc tranh luận với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Khánh Ký tại nhà số 6 phố Villa des Gobelins.
Ngày 20/12/1919
Nguyễn Ái Quốc đến thư viện Sainte Geneviève hồi 10h 20p đến 11h 45p. Mua một tờ L’ Humanité.
17h 30p, đến Academie Saint Louis chơi bi-da với cụ Phan Châu Trinh.
18h 30p, rời Louis về số 6 phố Villa des Gobelins.
20h 10p, Nguyễn Ái Quốc cùng với một người Việt Nam xuống tàu điện ngầm đến Bastille rồi mất hút.
Ngày 23/12/1919
Nguyễn Ái Quốc cùng với Phan Châu Trinh rời số 6 Vlila des Gobelins vào lúc 14h 10p, cùng đến phố Claude Bernard có hiệu nhuộm Berthon đưa đồ giặt, đến bác sĩ Trinh không có nhà, gặp một sinh viên, trước ở đường Montparnasse. Ba người Việt Nam đến gặp họ.
17h 30p, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc đi bỏ thư, Nguyễn Ái Quốc về nhà trước.
18h 25p, Khương đến gặp Nguyễn Ái Quốc tại 6 Villa des Gobelins.
Và ngay cả khi Bác bệnh vào bệnh viện cũng được mật thám Pháp ghi lại tường tận.
Ngày 14 /1/1921
Nguyễn Ái Quốc vào nằm tại bệnh viện Cochin để mổ áp xe ở vai.
Ca mổ được tiến hành ngày 19/1.
Ngày 20/1, đã có nhiều người vào thăm, trong đó có cả ông Vigné d’ Octon.
Ngày 25/1, Nguyễn Ái Quốc nhờ một y tá mang một thư đi trao tận tay cho Võ Văn Toàn.
Ngày 31/1, Phan Châu Trinh, Trần Tiến Nam, Võ Văn Toàn và Ba Sóc đã vào thăm Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 21/2 được tin Phan Châu Dật - con trai Phan Châu Trinh qua đời, Nguyễn Ái Quốc từ bệnh viện Cochin nhờ một y tá cầm thư chia buồn gởi đến Phan Châu Trinh.
Từ sau ngày xuất hiện tên Nguyễn Ái Quốc, mật thám Pháp vô cùng lúng túng. Nguyễn Ái Quốc là ai, sinh viên du học, thợ, cộng sản? Một mạng lưới mật thám dày đặc vây quanh Bác. Nhưng vẫn có nhiều nhận định thiếu chính xác, lúng túng.
Xin trích từ hồ sơ mang số 1116 của mật thám Pháp theo dõi hoạt động của Bác:
Báo cáo của Jean ngày 3/11/1919.
“Nguyễn Ái Quốc đã gửi một bản cáo trạng tới nhiều nhân vật bản địa của thuộc địa với lời kêu gọi từ một seri những yêu sách. Những bản cáo trạng này được gửi đi từ Paris vào tháng 6/1919.
Nguyễn Ái Quốc rất có thể đã ở 6 năm tại Châu Mĩ và 2 năm ở London.”
Báo cáo từ ngày 19 đến ngày 28/11/1919 tại Con-holand của nhóm Đông Dương có đoạn ghi:
“Ái Quốc che giấu rất kĩ thân phận thật của mình. Ông ta nói thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp, ông ta cũng nói rằng mình biết tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý, tiếng Trung Quốc. Ông ta bảo đã từng ở Huế năm 1908 vào thời kì đầu nổi dậy ở An Nam.”
Báo cáo của Edouard ngày 11/12/1919 về Nguyễn Ái Quốc:
“Tôi đã được biết tên thật của Ng Ái Quốc là Ng-Van-Thanh. Ông ta đã du học tại Anh trong 2 năm. Rất có thể ông ta có xuất thân từ Tourane. Ông ta sống bằng tiền của gia đình, đó là một gia đình giàu có.”
Báo cáo số 52 ngày 1/7/1921, của mật thám Jos-selme gửi khâm sứ Pierre Guesde
“Tôi xin trân trọng gửi tới ngài một bức thư của Nguyễn Ái Quốc gửi “người liên lạc” ở Marseille. Bức thư đánh dấu một điều quan trọng, tên cộng sản Đông Dương là người ủng hộ việc liên lạc không có chữ kí và không ghi tên người gửi. Ông ta lấy địa chỉ số 6 Villa des Bobelins thay cho địa chỉ 12 đường Buot, Paris XIII. Đây là địa chỉ được ghi ở bức thư số 8 ngày 25/3/1921. Ông ta cũng tỏ ra lo lắng về chuyến viếng thăm của phụ tá Hy ở Paris, được ngài cử tới theo dõi nhóm những người Đông Dương đang sống ở đây. Trong thư có đoạn ngắn viết bằng chữ quốc ngữ, chính là minh chứng cho sự cẩn trọng của ông ta. Nội dung và cách trình bày phản ánh đúng tâm trạng của gã người An Nam.”
Báo cáo mật vụ Deveze ngày 16/8/1921:
“Thứ sáu ngày 12/8 Nguyễn Ái Quốc đã nhận tại số 6 Villa des Gobelins tờ Le Libertaire (tờ Tự do) từ thứ 6 ngày 12 đến thứ 6 ngày 19/8/1921, trong đó có bài ở trang 3 ở chuyên mục Góc của những người bản địa bị ruồng bỏ với tiêu đề Kẻ cướp và những kẻ phụ tá được kí tên P. Vigne d’Octon.
Bài báo này được viết theo ý tưởng của Nguyễn Ái Quốc, người giữ liên lạc thường xuyên với Vigne d’Octon và thường xuyên qua lại tòa soạn ở số 69 đại lộ Belleville.”
*
* *
Cho đến khi Bác rời Paris đến với quê hương Cách mạng tháng Mười năm 1923, mật thám Pháp vẫn lúng túng về Nguyễn Ái Quốc. Mãi 5 năm sau, năm 1928 họ mới tạm có một tổng kết về Nguyễn Ái Quốc kèm theo cả ảnh chân dung:
“Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành, hay Nguyễn Văn Thành, còn gọi Nguyễn Sinh Con hay Nguyễn Bé Con, còn gọi Lý Thụy
Sinh năm 1892, 36 tuổi ở Kim Liên, địa phận Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn (Nghệ An)
Con trai của Nguyễn Sinh Huy, còn gọi Nguyễn Xuân Sắc.
Đã từng ở nhiều năm tại châu Mĩ, tại Anh, tại Pháp và tại Nga.
Đại diện của nhóm Cộng sản Đông Dương tại Quốc tế III.
Có khả năng hiện tại đang có mặt tại Viễn Đông.
Nhận diện:
Cao 1,62m, gầy, trán cao, mũi nở rộng, môi dày, môi dưới trề, vành tai bên trái dẹp, vành tai bên phải đầy đặn hơn, hai vành tai không dính liền.”
Còn trong hồ sơ số 1116 đã trích dẫn thì đánh giá rằng:
“Nguyen Tat Thanh còn gọi Nguyen Ai Quoc
Nguyen-Ai-Quoc là kẻ manh động nhất và quyết tâm nhất trong những đối thủ của giới chức Pháp tại Đông Dương.
Sự thật, ông ta tự nguyện ép mình vào nghèo khổ hành động vì lí tưởng mà ông ta tin là chính nghĩa với niềm tin như một tín đồ, vì mục đích của ông ta.
Thu nhập ít ỏi của ông ta được dùng để bảo trợ những hiệp hội hay những hội nhóm và dùng để mua báo chí của đảng xã hội, cộng sản hay cách mạng.
Ông ta là độc giả của các tờ báo: Nhân Đạo, Nhân Dân, Con Sóng, Người Cùng Khổ, Đồng Bào, Tự Do, Đấu Tranh Công Đoàn.
Đã tham dự Đại hội Cộng Sản Tours và Marseille và nói chung là tất cả các cuộc họp, công đoàn, cộng sản hay cách mạng. Là thành viên của Hội Quốc tế Thực dân, với tư cách người “đại diện của dân tộc An Nam”, mọi hoạt động đều không có lợi nhuận kinh tế. Là người kí tên Nguyễn Ái Quốc dưới Bản yêu sách của nhân dân An Nam hay còn gọi Quyền lợi của nhân dân đã được gửi đi khắp nơi.
Chấp thuận với Phan-van-Truong để tái dựng nhóm “Tương ái”. Cả tên của ông ta và tên của Phan-văn-Truong đều không xuất hiện chính thức trong vai trò lãnh đạo của hội, họ đứng sau cánh gà và đưa ra đường lối hoạt động.
Rất nguy hiểm.”
“… Trong vòng bốn năm ở Paris, Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động không giới hạn. Tổ chức các hoạt động mít tinh về Đông Dương tại các nhóm hội có ít nhiều liên quan đến đảng cộng sản, ông ta tìm thấy niềm vui bằng việc đi Thư viện Quốc gia, đến chơi với các hạ nghị sĩ, những nhà báo có tư tưởng cực hữu, giữ quan hệ mật thiết với các đồng hương tại Paris. Trong năm 1920, ông ta còn viết cuốn Bản án thực dân Pháp.”
Hồ sơ mật thám Pháp theo dõi Bác còn lưu lại rất dày đến cả nghìn trang. Tôi thầm “merci” (cám ơn) mật thám Pháp đã để lại những dấu tích có một không hai về ý chí kiên cường, sự linh hoạt, can đảm và thông minh của tuổi trẻ Bác Hồ. Một thanh niên không nghề nghiệp, không tiền bạc, chỉ có trái tim yêu nước đã dũng cảm bước vào thủ đô của thực dân xâm lược và công khai hoạt động vì giai cấp bị áp bức, vì dân tộc Việt Nam. Tôi rất thú vị khi đọc được nhận định lúc đó của Arroux, Trưởng ban Đông Dương của mật thám Pháp năm 1918 về Bác: “Các ngài hãy tin rằng chính anh thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt cây thập tự cáo chung lên nền thống trị của Pháp tại Đông Dương.”
Biết như vậy, thấy như vậy, nhưng thực dân Pháp vẫn không thể nào cản được con đường cứu nước của Người.
III
Trong một lần trở lại thăm Paris đầu năm 2010 với bà Nguyễn Thị Bình - nguyên Phó Chủ tịch nước Việt Nam, cháu ngoại cụ Phan Chu Trinh, một nhà ngoại giao mà tên tuổi đã đi vào lịch sử và là một trong bốn trưởng đoàn đàm phán ở hội nghị Paris, cũng là trưởng đoàn duy nhất còn sống và khỏe mạnh, chúng tôi gặp lại những người bạn Pháp đã từng hết lòng ủng hộ Việt Nam. Trong những người đó, có ông Raymond Aubrac, năm ấy đã 96 tuổi. Ông vui vẻ nhắc lại những kỉ niệm đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trả lời câu hỏi, năm 1946 Bác Hồ là chính khách của nước Pháp mà sao lại về ở nhà ông, ông Aubrac cười từ tốn:
“Tôi gặp Bác Hồ lần đầu trong bữa tiệc do Hội Việt kiều tổ chức ở vườn Hồng Bagatele. Người biết tôi là chiến sĩ chống phát xít nên rất thân mật khoác tay tôi như đã quen nhau từ trước và thong thả nói chuyện. Trong câu chuyện, Người tỏ ra không thích ở trong lâu đài lộng lẫy mà Chính phủ Pháp dành cho. Người nói vì nó không có vườn cây thoáng đãng, nhưng tôi biết, Người muốn rời khỏi nơi đầy công cụ theo dõi của mật thám. Tôi nói nhà tôi rộng, có vườn, muốn mời Chủ tịch đến thăm, uống trà và nếu thích xin mời ngài đến ở.”
Bác đến thăm, sau đó quyết định đến ở nhà ông Aubrac tại khu Soissy-Sous-Monmorency phía bắc Paris. Bác đã ở đây 6 tuần từ đầu tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1946. Tại đây Bác đã nhiều lần làm việc, nghe đồng chí Phạm Văn Đồng từ hội nghị Fontaineblau đến báo cáo và tiếp nhiều khách qúy.
Bác rất thích vườn nhà vì nó rộng rãi có nhiều cây dẻ cho bóng mát và nhiều cây hoa anh đào. Bác vẫn ngày ngày đi dạo. Ông Aubrac còn kể một sự kiện riêng mà ông cho rằng rất đặc biệt. Bác đến ở nhà ông độ hai tuần thì vợ ông sinh con gái đầu lòng. Bác đã mang hoa đến bệnh viện thăm và nhận làm cha đỡ đầu. Ông nói: “Từ đó, mỗi năm đến sinh nhật cháu, kể cả những năm chiến tranh Bác đều gửi quà, thư chúc mừng.” Ông Aubrac nói: “Đây là vinh dự lớn, là tình nghĩa sâu đậm thủy chung của Bác Hồ dành cho chúng tôi.”
Ông Aubrac là người đã lãnh đạo phong trào chống phát xít ở miền Nam nước Pháp, là người đã có nhiều đóng góp với Việt Nam. Năm 1955, ông là người thay mặt Chính phủ Pháp đến Việt Nam kí bản thỏa thuận thương mại đầu tiên giữa Việt Nam với Pháp. Là người giữ liên lạc giữa Việt Nam và Hoa Kì để thực hiện yêu cầu Mĩ chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc Việt Nam năm 1967. Ông nhiều lần bay sang Mĩ gặp Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc và gặp trực tiếp H. Kissinger, gặp Giáo hoàng Jean Paul 6 để tìm kiếm, thúc đẩy các giải pháp hòa bình theo ý của ta. Sau giải phóng miền Nam ông là người yêu cầu Mĩ chuyển giao cho Việt Nam bản đồ các bãi mìn ở vĩ tuyến 17. Ông có nhiều đóng góp công khai và thầm lặng rất giá trị với Việt Nam. Ông là khách qúy của Bác Hồ, đã hai lần đến Hà Nội thăm Bác. Với những đóng góp to lớn cho Việt Nam, ông là người nước ngoài đầu tiên được Nhà nước ta tặng Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2012).
*
* *
Cũng trong dịp đến Paris nhân ngày kí Hiệp định hòa bình ở Việt Nam, tôi và Đại sứ Trịnh Ngọc Thái thăm lại thành phố Montreuil (một thành phố trong thủ đô Paris). Montreuil là vùng do Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo. Đây cũng là nơi Đảng Cộng sản Pháp cho đoàn miền Bắc đóng trụ sở suốt 5 năm, là nơi diễn ra những cuộc gặp bí mật giữa ta và trưởng đoàn Mĩ. Đại sứ Trịnh Ngọc Thái 5 năm đó là thư kí của đồng chí Xuân Thủy, trưởng đoàn miền Bắc. Anh rất giỏi tiếng Pháp, sau này là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam tại Pháp. Những ngày Hội nghị Paris, tôi thường liên lạc qua anh để có những buổi gặp báo cáo với Bộ trưởng Xuân Thủy. Đại sứ Trịnh Ngọc Thái và tôi kính cẩn đặt hoa dâng Bác. Hình ảnh Bác những ngày ở Paris những năm đầu thế kỉ XX lại hiện lên trước chúng tôi. Một trăm năm trước dấu chân cách mạng của Bác từ xứ thuộc địa đã in trên mọi nẻo đường Paris thủ đô của chính quốc thực dân xâm lược. Và chính nơi đây đã vỡ ra trong Bác sự thật của 6 chữ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” mà những ngày ở Huế là một câu hỏi trong Bác và cũng chính Paris đã đưa đến Bác những ý tưởng mở ra con đường giải phóng dân tộc.
Đứng giữa bảo tàng sống của công viên Montreau càng thấy sự vĩ đại của Bác, vĩ đại của quá khứ, hôm nay và ngày mai.
Paris tháng 10/2022
T.Q.P
--------
1. Theo tạp chí Phương Đông số 6 năm 2021.
VNQD