Văn học Pháp nói riêng, văn hóa Pháp nói chung có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam. Việc tiếp nhận văn học - văn hoá Pháp đã giúp người Việt hình thành nên những dấu ấn và bản sắc văn học - văn hóa riêng. Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã trò chuyện cùng PGS.TS Phùng Ngọc Kiên (Viện Văn học) xoay quanh việc tiếp nhận văn học - văn hóa Pháp ở nước ta.
- Thưa PGS.TS Phùng Ngọc Kiên, anh có thể cho độc giả Văn nghệ Quân đội biết cơ duyên nào khiến mình theo đuổi con đường nghiên cứu văn học Pháp nói riêng, văn hóa Pháp nói chung?
+ Tôi vốn học ngành Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào những năm 90 của thế kỉ trước, khi tổ Văn học nước ngoài có những thầy cô giàu kinh nghiệm và có thể truyền cảm hứng mãnh liệt như Phùng Văn Tửu, Đặng Anh Đào, Nguyễn Hoàng Tuyên. Văn học Pháp là một nền văn học chính được giảng dạy kĩ và có số tiết nhiều nhất của phân môn Văn học nước ngoài với những tên tuổi quen thuộc như Corneille, Racine, Voltaire, Rousseau, Stendhal, Hugo, Balzac, Sartre, Camus… Tôi có biết chút tiếng Pháp, nên lựa chọn môn học này khi học thạc sĩ. Thầy Phùng Văn Tửu đã nhận hướng dẫn tôi làm luận văn về Gustave Flaubert - nhà văn lớn bậc nhất của nền tiểu thuyết Pháp thế kỉ XIX, người được coi là mở đường cho tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Tuy nhiên vì ông chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam so với hai đại diện quen thuộc của văn học Pháp thế kỉ XIX là Hugo và Balzac nên ít người biết đến. Cho đến khi đó, có hai tiểu thuyết là Bà Bovary và Salammbô và một truyện ngắn của ông là Một tấm lòng chất phác được dịch sang tiếng Việt. Gần đây có thêm một bản dịch tiểu thuyết Giáo dục tình cảm được thực hiện bởi dịch giả Lê Hồng Sâm, và trọn vẹn ba truyện ngắn nổi tiếng của ông là Ba truyện kể (Nxb Văn học và Nhã Nam). Việc tiếp cận khác nhau đối với một tác giả lớn như vậy trong văn học Pháp và Việt Nam khiến tôi tò mò về những sự bất cân xứng của quá trình giao lưu và biến đổi văn học nói riêng và văn hóa nói chung, giữa Việt Nam với Pháp. Từ đó, tôi nghĩ rằng cần quan tâm đến quá trình chuyển dịch văn học và văn hóa giữa các quốc gia và các nền văn minh. Chúng rất hay và cũng rất khó, bởi cần đến một quá trình khảo sát tỉ mỉ, kĩ càng, đòi hỏi một cái nhìn vừa bao quát lại vừa cụ thể chi tiết.
- Văn học Pháp có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam hiện đại. Việc tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam là một câu chuyện dài. Thành tựu thì đã quá rõ ràng. Ở đây tôi muốn chúng ta bàn một chút đến những khía cạnh khác của quá trình tiếp nhận này. Về giai đoạn hưng thịnh nhất của việc tiếp nhận (1900 - 1930), Nguyễn Duy Bình đã nhận định: “Trong giai đoạn này, với cái nhìn toàn cảnh về văn học Pháp, chúng ta có thể thấy nhiều trào lưu, trường phái văn học: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa dada, chủ nghĩa siêu thực... Thế nhưng, các dịch giả ở giai đoạn này gần như chỉ chọn các tác phẩm tiểu thuyết, kịch cổ điển và các tác phẩm thơ thuộc trường phái lãng mạn”. Tại sao các dịch giả Việt Nam lại lựa chọn như vậy, thưa PGS.TS Phùng Ngọc Kiên?
+ Đúng như anh nói, kết quả của sự giao lưu và ảnh hưởng giữa Pháp với Việt Nam là rất rõ ràng bởi những tình thế lịch sử. Ảnh hưởng văn hóa có thể dễ dàng được nhận ra thông qua sự tồn tại của các hiện tượng và sự việc. Một quy hoạch đô thị theo lối phương Tây với phố cổ Hà Nội, một công trình kiến trúc tiêu biểu như Nhà hát Lớn Hà Nội, một tác phẩm văn học như của Hugo hay Balzac được dịch hoặc phóng tác sang tiếng Việt... là những ví dụ tiêu biểu. Nhưng tìm hiểu cơ chế hoạt động của chúng thì lại đặt ra những câu hỏi khá là mâu thuẫn, như việc vì sao tác phẩm hay tác giả đó nổi tiếng ở đây nhưng lại không nổi tiếng ở kia. Trường hợp Flaubert mà tôi theo đuổi là một ví dụ, và nhận xét của TS, dịch giả Nguyễn Duy Bình mà anh nhắc đến là những ví dụ khác. Những nhận xét này cần được đặt trong bối cảnh lịch sử văn hóa đương thời, mà chúng tôi cũng có triển khai trong công trình chung do TS Nguyễn Duy Bình làm chủ biên - Một số vấn đề tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam dưới góc nhìn của lí thuyết phức hệ (Nxb Đại học Vinh, 2015), hoặc gần đây là cuốn sách do tôi chủ biên cùng với đồng nghiệp Đoàn Ánh Dương - Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do (Nxb Hội Nhà văn và Tao Đàn, 2023).
Nói một cách đơn giản thì những thập niên đầu thế kỉ XX là giai đoạn văn học Việt Nam cần “cập nhật” để có thể thoát khỏi mô hình văn học cũ của thời trung đại và trở thành một nền văn học hiện đại. Văn học Pháp khi đó đã là một trung tâm của văn học phương Tây và văn học thế giới với sự hiện diện của tất cả những trào lưu cách mạng nhất, tiền phong nhất như dada hay siêu thực. Có vẻ như tình thế lịch sử đặc biệt của quan hệ giữa nước Pháp đế quốc với nước Việt Nam thuộc địa dễ dàng khiến văn học Pháp trở thành một cánh cửa để văn học Việt Nam giao tiếp với những gì mới mẻ và tân tiến nhất đương thời của thế giới. Tuy nhiên thực ra vào thời điểm ba mươi năm đầu thế kỉ thì văn học Pháp vẫn là một “khe cửa hẹp” cho văn học Việt Nam giao tiếp với thế giới, bởi lẽ số lượng người học rất ít, người quan tâm đến văn chương lại càng ít. Mọi sự mới mẻ, cách mạng và tiền phong đều xa lạ, thậm chí có thể bị coi là trở nên quá khó để chấp nhận đối với công chúng nói chung, và ngay cả các dịch giả nói riêng. Các dịch giả đương thời do vậy đã lựa chọn hướng tiếp cận dần dần khi tập trung giới thiệu lần lượt từ thời cổ điển của Corneille, Molière cho đến cận hiện đại thế kỉ XIX với các sáng tác hiện thực hoặc lãng mạn của Balzac hay Hugo. Thực ra từng có cả những tác giả danh tiếng đương thời như Maurice Barrès, hay Anatole France, nhưng đó là những tác giả chuẩn mực hơn là sáng tạo như Gide, Aragon hay Breton.
Phùng Ngọc Kiên hiện công tác tại Phòng Văn học nước ngoài, Viện Văn học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Nghiên cứu của Phùng Ngọc Kiên tập trung vào văn học Pháp, quá trình trao đổi văn hóa và văn học giữa Việt Nam với Pháp, những chủ đề của văn học Việt Nam trong giai đoạn thuộc địa, các vấn đề xã hội học văn học và xã hội học nghệ thuật. Một vài dịch phẩm, nghiên cứu tiêu biểu mà anh đã công bố: Mimésis - phương thức biểu hiện thực tại trong văn học phương Tây của E. Auerbach, Nxb Tri thức, 2014; Quy tắc nghệ thuật của P.Bourdieu, dịch chung với Nguyễn Phương Ngọc, Nxb Tri thức, 2018; Những thế giới song song, khả thể và giới hạn trong (tái) diễn giải văn chương, Nxb Tri thức, 2017; Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do, chủ biên, với sự tham gia biên soạn của Đoàn Ánh Dương, Nxb Hội Nhà văn và Tao Đàn, 2023. |
Quá trình dịch là sự tiếp cận văn học Pháp cho độc giả nói chung và cho chính các dịch giả nói riêng. Họ là những độc giả đặc biệt của văn học Pháp ở Việt Nam khi vừa đóng vai người đọc, vừa đóng vai người sáng tạo thông qua hành vi dịch. Những độc giả đặc biệt này giữ vai trò truyền nhập văn hóa góp phần đặt nền móng để văn học Việt hiện đại hoá. Cần phải đợi thêm mười năm sau đó, nghĩa là sau những năm 30, khi có một thế hệ người đọc đủ lớn về số lượng và đủ tự chủ về năng lực tiếp nhận, để văn học Việt Nam đối thoại với văn học thế giới. Ảnh hưởng của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam do vậy suy cho cùng không phải nằm ở việc có “dấu ấn” này hay kia, mà chính là góp phần để văn học Việt Nam thế kỉ XX trở nên hiện đại nhờ sự tự chủ và có thể đối thoại bình đẳng với những nền văn học lớn khác trên thế giới.
- Ở thời điểm hiện tại, người người, nhà nhà, đâu đâu cũng nói đến “sinh thái”, “tự nhiên”, cũng bàn về giáo dục khai phóng… Những điều này thì Rousseau đã bàn cách đây… vài thế kỉ trong các trước tác của mình. Và sách của ông đã được dịch ra tiếng Việt. Tuy nhiên chúng ta đều thấy tầm ảnh hưởng của các nhà khai sáng như Rousseau (và cả Voltaire nữa) ở Việt Nam không lớn, không phổ biến rộng rãi. Theo anh, tại sao người Việt lại “kiên cường” đến vậy trong việc tiếp nhận những tinh hoa triết học - văn học của nước Pháp nói riêng, thế giới nói chung?
+ Anh nói rất đúng, Rousseau đã nói đến con người tự nhiên, đến sự “khai phóng” của giáo dục trong cuốn sách nổi tiếng của mình - Emile hay là về giáo dục. Nhưng tư tưởng của ông về thiên nhiên không giống hoàn toàn với tinh thần mà ngày nay nói về thiên nhiên qua những từ khóa như “sinh thái”, “tự nhiên”. Cũng tương tự như thế với việc Voltaire bàn đến tinh thần “bình đẳng”, “phê phán” và “bao dung” như là những nền tảng cho đời sống hiện đại. Mức độ ảnh hưởng của những vị triết gia này với chúng ta nằm ở những cơ tầng rất sâu của tri thức chứ không chỉ nằm ở những trích dẫn hời hợt cho có. Việc ngày nay dùng những từ khóa mà anh vừa nhắc đến ở trên không có nghĩa người ta “lãng quên” họ. Bởi cũng như tại Pháp thôi, những vĩ nhân này đã bước vào điện Panthéon, và chúng ta cần để họ được yên nghỉ và cần đối diện với những vấn đề có tính thời sự hơn rất nhiều. Họ cách chúng ta đến hơn hai thế kỉ rồi. Nhưng tôi hoàn toàn đồng ý với anh ở việc tiếp nhận những tác giả lớn này cần hệ thống hơn, có kế hoạch hơn thay cho việc chạy theo các trào lưu, các mốt học thuật. Nhưng xưa kia, Rousseau cũng chẳng từng tạo nên một thứ “mốt” cho văn học lãng mạn đấy thôi! Vậy nên, việc học và đọc những tác giả kinh điển, những “tinh hoa triết học - văn học” như anh nói, cần đến một sự trưởng thành hơn của nền học thuật, được thể hiện qua những công trình bề thế, của những nghiên cứu chuyên sâu chứ không phải chỉ của các phát ngôn mà ta vẫn tìm được rất nhiều trên báo chí.
- Tôi nhớ hồi học đại học, các thầy giáo ở Bộ môn Văn học phương Tây Khoa Văn - Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội có đưa ra một ví dụ về việc tiếp nhận này. Ở nước Pháp, với Hugo, mọi người thích nhất là kịch, rồi đến thơ, sau cùng mới là tiểu thuyết. Ở nước ta thì ngược lại. Các tiểu thuyết của Hugo có độ phổ biến, nhận diện cao, còn kịch thì… chỉ tồn tại trong giới nghiên cứu. Sự tiếp nhận này, theo anh, nói lên điều gì về căn tính dân tộc Việt?
+ Câu chuyện tiếp nhận như anh nói theo tôi không hẳn là liên quan đến căn tính dân tộc đâu. Có lẽ không nên “nâng cao quan điểm” như thế. Như tôi đã nói ở trên, luôn có một sự bất cân xứng của quá trình tiếp nhận văn học và văn hóa do những điều kiện cụ thể của lịch sử và văn hóa. Có lẽ nhờ thế mà tạo nên mọi sự vận động trong đời sống chăng, giống như gió thổi từ nơi khí áp cao đến nơi khí áp thấp vậy. Không nhất thiết độc giả Việt Nam cần đọc, cần thích giống như độc giả Pháp khi đọc một tác giả Pháp. Ở chiều ngược lại, chúng ta cũng chứng kiến không ít tác phẩm hay tác giả Việt Nam không được ưa thích trong nước lắm, nhưng lại đặc biệt được đánh giá cao ở nước ngoài. Hơn nữa trường hợp Hugo chẳng hạn thì có những cái khó về mặt văn chương bởi chính tầm vóc và sự đa dạng của ông. Kịch Hugo vô cùng khó diễn ngay với chính sân khấu Pháp, còn thơ Hugo thì rõ ràng không dễ để dịch, chuyển ngữ như chính những khó khăn nội tại của thi ca, của đặc thù thể loại này mà ta vẫn thường phải đối mặt. Chúng ta có thể dễ dàng đọc thơ Đường nhưng đâu dễ đọc thơ haiku dù cùng thuộc về văn hóa Á Đông? Nhưng đúng là có một giới hạn nào đó trong cách mà chúng ta, người Việt Nam, tiếp nhận văn học nước ngoài nói riêng và văn học Pháp nói chung. Chẳng hạn tuy chúng ta có quá khứ gắn bó nhiều với nước Pháp, chúng ta là một quốc gia tham gia vào khối Pháp ngữ, nhưng số lượng tác giả văn học Pháp được dịch thực ra cũng không phải nhiều và đầy đủ so với những quốc gia khác như Nhật Bản chẳng hạn. Họ đã từng giới thiệu Toàn tập Sartre bằng tiếng Nhật vào cuối những năm 1960 khi nhà văn này còn sống. Vào những năm cuối thế kỉ XX, nhóm dịch giả do cô Lê Hồng Sâm chủ trì đã dự định dịch hết bộ Tấn trò đời của Balzac, với sự tài trợ một phần từ phía Pháp. Song cuối cùng nhóm dịch cũng chỉ ra được hơn mười cuốn bao gồm một số ít tiểu thuyết, một vài cuốn đã được dịch từ trước và phần lớn còn lại gồm các tác phẩm được tóm tắt. Cũng cần sòng phẳng là người ta chỉ có thể dịch chúng nếu có thể bán được, nghĩa là thị trường đọc phải đủ lớn. Nhưng số người mua hết để đọc, và số người đọc hết cũng không có nhiều. Quy luật thị trường oái oăm thay trong trường hợp này phần nào bộc lộ bề sâu của một nền văn hóa, những khuất khúc của một nền văn minh.
- Phải chăng điều anh vừa nói cũng liên quan đến nhận xét của Hoàng Nhân rằng việc tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam có “hạn chế khá rõ là ít tiếp nhận văn chương hiện đại Pháp, và thiếu hụt chiều sâu suy tư triết học khi tiếp nhận văn chương Pháp, vốn có mối quan hệ văn - triết lâu đời”?
+ Nói tới “thiếu hụt chiều sâu triết học khi tiếp nhận” quả thực chưa bao giờ là câu hỏi mà tôi tự đặt ra cho mình, nên đó cũng là một gợi ý để suy nghĩ và chiêm nghiệm. Tôi không thể và cũng không nên bàn về những người đồng thời với mình vì bản thân mình cũng nằm trong giới hạn của chiều kích hiện tại. Nhưng như tôi đã nói ở trên, sẽ có những thời điểm mà văn học Việt Nam đi không cùng nhịp với văn học thế giới nói chung và văn học Pháp nói riêng. Đầu thế kỉ XX là một ví dụ, và điều này lặp lại lần nữa vào nửa sau thế kỉ XX khi chúng ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến với nước Mĩ, và xoay xở trong “chiến tranh lạnh”. Nhưng phải nói sòng phẳng là khi Việt Nam hội nhập về kinh tế trong khoảng 20 năm trở lại đây với thế giới, thì có vô số đầu tác phẩm văn học hiện đại và đương đại Pháp được dịch và giới thiệu ở Việt Nam. Anh Nguyễn Duy Bình là một ví dụ cho những dịch giả đã giới thiệu những tác phẩm đoạt giải Goncourt trong văn học đương đại Pháp.
- Theo thời gian, mức độ ảnh hưởng của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam ngày càng giảm dần. Văn học Nga rồi văn học Trung Quốc, văn học Nhật Bản dần dần thay thế văn học Pháp, tạo nhiều ảnh hưởng lên văn học Việt Nam ở những giai đoạn tiếp sau. Anh lí giải thế nào về hiện tượng này?
+ Câu chuyện này theo tôi cũng bình thường thôi, vì những lúc chúng ta tham gia vào thế giới Hán ngữ, thì nền văn học của chúng ta chỉ xoay quanh những “Tử viết Thi vân”; rồi đến thời cận đại người ta chỉ nói đến những Mạnh Đức tư cưu, Địch Đức La, Lạp Mã Khắc, Lư Thoa, rồi sau đó là những Hugo, Balzac, Gide, Bergons. Đến cả tên của Freud cũng được phiên âm theo tiếng Pháp. Có một thời chúng ta lại chỉ đọc những Mayakovski, Fadeyev, Sokholov… Mỗi thời đều có những “chủ lưu” mà chúng ta cần ý thức và tôn trọng. Nói như người xưa, “thời đến không cản nổi”. Biết đâu đến một lúc không phải là nền văn học Ả Rập hay Ấn Độ?
- Không chỉ văn học, mà hội họa, kiến trúc, giáo dục… tất cả những thứ mang dấu ấn Pháp ở Việt Nam theo thời gian đều giảm dần tầm ảnh hưởng. Người Việt giờ coi những gì thuộc về Pháp là quá khứ, đẹp và chỉ để trưng bày chứ không có nhiều ý nghĩa sử dụng. Tiếng Anh giờ là ngoại ngữ phổ biến nhất, rồi đến tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn. Tiếng Pháp ở vị trí thứ yếu. Cầu Long Biên được thay thế bằng nhiều cây cầu khác. Biệt thự Pháp cổ đẹp, nhưng không còn là “khuôn vàng thước ngọc” phải theo khi xây nhà. Số học sinh du học ở Pháp chỉ 7500 người một năm (tôi lấy số liệu trên trang vfegroup.vn), kém xa số học sinh du học ở Mĩ, Úc, Nhật, Hàn, Trung Quốc. Là một người yêu nước Pháp, anh có chạnh lòng không khi chứng kiến hiện tượng trên? Phải chăng văn hóa Pháp đã dần dần bị bứng ra khỏi đời sống xã hội ở một nơi tưởng chừng đã cắm rễ bền chặt như Việt Nam?
+ Tôi muốn kể cho anh một chuyện về việc “thời đến không cản nổi” thế này. Tôi có vài người bạn đi học ở Pháp về (các ngành khác ngoài văn học, như kinh tế, luật…) Tất thảy họ sau đó đều đi làm trong các công ty sử dụng tiếng Anh, dù đó có thể là công ty Pháp. Điều ấy cho thấy là kinh tế có vai trò quan trọng như thế nào đến đời sống của chúng ta, kể cả những người làm công việc liên quan đến văn chương. Anh và tôi đều không thể động viên con mình đi học tiếng Pháp, phải không? Nghiên cứu gần đây của tôi và anh Đoàn Ánh Dương cũng cho thấy rằng, văn chương chỉ trở nên tự chủ về tư tưởng và giá trị nếu nó (và dĩ nhiên tác giả của các tác phẩm tự chủ về kinh tế). Nhưng tôi cũng không nghĩ rằng văn học Pháp nói riêng và văn hóa Pháp nói chung sẽ “dần dần bị bứng ra khỏi đời sống xã hội”, bởi một lẽ đơn giản là chúng đã tạo nên một phần cho tính hiện đại của xã hội Việt Nam, cho văn học Việt Nam thế kỉ XX như trên tôi đã nói. Nói cách khác, quá trình chuyển dịch văn hóa đã thâu góp các giá trị phổ quát đến từ nước Pháp để làm nên tính hiện đại của văn học Việt Nam trong giai đoạn chuyển giao từ cận đại sang hiện đại. Vậy thì cũng không nên hoài cổ hay nệ cổ làm gì.
- Việc tiếp nhận văn học Pháp (hay bất cứ một nền văn học nào khác) đối với người Việt đều phải thông qua đội ngũ dịch giả. Thế hệ dịch giả gạo cội đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Theo anh, thế hệ dịch giả trẻ hiện nay cần làm gì để duy trì và phát triển dòng chảy văn học - văn hóa Pháp ở Việt Nam?
+ Dòng chảy này chắc chắn phải được thúc đẩy bởi một động lực quan trọng là kinh tế, hoặc thêm vào đó là các chính sách như những đường bờ định hướng. Do vậy, chúng ta không thể duy ý chí, muốn là được. Dịch giả trẻ trong những điều kiện xã hội khác xa ngày xưa thì không chỉ đam mê là đủ, mà còn cần bán được sách mà họ dịch, hoặc có một thu nhập đủ cao từ nguồn nào đó để họ dành thời gian cho công việc hoặc đam mê. Vậy chừng nào văn học Pháp còn hấp dẫn độc giả, chừng nào việc dịch văn học Pháp còn nhận được sự hỗ trợ từ các mạnh thường quân thì chắc chắn dịch giả còn có thể hoạt động. Thú thực tôi không phải là một dịch giả văn chương đích thực để đưa ra một lời khuyên nghề nghiệp. Từ góc độ một người đọc nhiều vai, tôi nghĩ dòng chảy này sẽ mang đến nhiều phù sa hơn cho nền văn học của chúng ta nếu bản thân dịch giả có một thứ tiếng Việt cực tốt. Mà muốn có tiếng Việt tốt, thì họ không chỉ đọc văn học Pháp mà còn cần đọc rất nhiều văn học Việt Nam, cả hiện đại lẫn trung đại. Và tôi luôn tin rằng khi nền văn học Việt Nam tự chủ, nó sẽ đối thoại bình đẳng với văn học nước ngoài nói chung và văn học Pháp nói riêng qua lựa chọn những bản dịch và qua những lựa chọn dịch thuật đích đáng để làm giàu cho chính mình, để làm cho đời sống văn chương ngày càng hiện đại, phong phú và đa sắc.
- Cảm ơn anh về cuộc trò chuyện!
TS ĐOÀN MINH TÂM thực hiện
VNQD