. HỒ TĨNH TÂM
Tôi cùng với anh bạn Dũng Hạnh đi xe gần hết nửa ngày, thêm gần nửa buổi ngồi đò nữa thì tới được đồng Ngao. Cánh đồng rộng ngút ngát, nhìn thấy ngờm ngợp con mắt. Anh bạn nói: “Phải mua thủ can rượu cho chắc. Nó sống mụ mị giữa đồng, hết rượu có mà chạy trào máu mắt”.
Hai đứa tôi thay nhau cụ bị can rượu lội bờ ruộng cả hơn hai tiếng đồng hồ mới thấy thòi ra cái chòi coi vịt của anh bạn. Bấy giờ trời đã lãng đãng xế chiều, gió thổi liu riu từng sợi, nắng ngả từ vàng xuộm sang màu ngai ngái tím. Anh bạn Tùng Bá đã lùa vịt trở về. Anh ta vận xà lỏn, đứng chắp tay. Bộ dạng coi ốm nhom ốm nhách, dường như lọt thỏm giữa gò đất trắng hều hệu màu lông vịt. Ngó thấy chúng tôi, anh chạy nhào tới chỗ bầy vịt, nhảy chồm chộp như cầu thủ tập chụp banh. Té ra là ảnh nhảy để bắt vịt. Khi chúng tôi tới nơi thì ảnh đã bẻ ngoéo cổ được hai con.
“Nướng đất sét một con nghen! Còn một con nấu cháo đậu xanh húp cho đã.”

Minh họa: Hải Kiên
Tùng Bá vừa nói vừa lội xuống mương móc đất sét. Dũng Hạnh trét đất sét lên lông vịt. Còn tôi lo việc quơ rơm. Trong khi hai đứa tôi lui cui ngồi nướng vịt thì Tùng Bá ra gốc me keo nổi lửa nấu cháo. Tới tắt mặt trời thì bữa nhậu được bày ra ngay dưới gốc me. Đống rấm cháy âm ỉ, khói bốc mù mịt, thơm thơm mùi khét của vỏ trấu. Nhờ mùi khét ấy mà muỗi cỏ không dám nhào tới mần thịt ba đứa chúng tôi.
Ngẫm ra, sống giữa đồng có trăm ngàn cái thú, nhưng khổ nhất là nạn muỗi cỏ. Đêm hôm lỡ mót đi cầu, muỗi bầy bâu tới, tấn công rát rạt cả mặt, cả bàn tay bàn chân và hai bàn mông. Ác địa hơn, muỗi còn đốt xuyên qua cả quần áo. Cái giá phải trả là người nổi đầy mẩn đỏ, ngứa ngáy không chịu nổi, tới phải dùng móng tay quào rách cả da thịt. Để có thể yên vị ngồi nhâm nhi, cứ là phải đốt tới vài đống rấm.
Ở đồng Ngao này Tùng Bá có con trâu, phải đào cho nó một cái vũng để trầm xuống mà ngủ, chỉ ló lên có hai con mắt và lỗ mũi. Muỗi cỏ nhè hai chỗ đó mà thi nhau xâu xé, khiến con trâu cứ phải liên tục đánh sừng xuống bùn lọc xọc, còn hai lỗ mũi thì đua nhau thở phì phọt cả đêm. Con trâu ấy là trâu cưới. Hàng ngày Tùng Bá vừa xua vịt chạy đồng, vừa tất bật tranh thủ cắt cỏ để vỗ béo cho trâu. Hơn hai tháng nữa là con gái anh xuống ghe dọc theo sông Hậu về với đàng trai. Đàng trai đòi làm đám vào tháng này, nhưng Tùng Bá phịa ra chuyện ngày tháng không hạp tuổi để hoãn binh. Hoãn binh là để trâu béo thêm vài chục kí mới đủ thịt mà đãi bạn bè, chòm xóm.
“Nó là con gái lớn, đãi đằng không tới nơi tới chốn chỉ sợ nó tủi. Chứ hồi tui lấy vợ, chỉ mấy con vịt với con heo còi chưa tới hai chục kí. Vậy mà vợ chồng cũng đèo bồng tới bảy đứa lận”.
Tùng Bá vừa nói vừa háy mắt với tôi. Anh ta mắc tật hay háy mắt. Nói gì cũng háy mắt. Nhiều người ghét tật ấy, cho là Tùng Bá cao ngạo, làm phách. Cấp trên thì vì vậy mà đì anh ta sát ván.
Hồi trước bảy lăm, Tùng Bá không chạy đủ tiền nên bị bắt lính ngay khi vừa chớm đủ tuổi công dân. Vô lính, sếp ghét tật háy mắt, đày ngay ra miền Trung. Đày ra miền Trung rồi thì không còn chỗ nào mà đày nữa. Trốn mấy lần không thành bị bắt làm lao công đào binh, xương xẩu Tùng Bá bị miểng pháo chém gãy tới mấy lần, da thịt bị đạn nhọn làm móp méo tới mấy chỗ. Khi thành phế phẩm của quân lực Cộng hòa, Tùng Bá bị vứt trở về quê. Chẳng hiểu lận lưng đâu được miếng giấy chứng thương, Tùng Bá trở thành người hùng của thị xã, coi cảnh sát và quân cảnh không ra giống ôn gì. Thằng nào rớ tới anh, anh cũng chìa ngay miếng bùa hộ mạng ra mà hét vào mặt nó: “Không biết tía mày là ai à? Giỏi thì ra vùng một mà chọi với lưỡi lê của cộng sản. Tía mày nếm đủ rồi. Giờ coi trời bằng vung”.
Tùng Bá về cùng lúc với Thủy đào ngũ từ Châu Đốc trở về. Chui lủi trốn quân dịch mà Thủy đòi cưới vợ. Kể cũng phải. Cô bồ của Thủy đẹp vậy, không cưới liền tay thì coi chừng có đám con nhà quan, nhà khá giả nó xốp mất. Vậy là Tùng Bá gom đám bạn bè là thương phế binh từ khắp nơi chống tó về dự đám. Cả trăm lính trận, chẳng thằng cảnh sát nào dám mò tới nhòm nhỏ. Tiền đám tom góp lại, đủ mở quán cà phê có tên là Lính Trận. Lính tráng trong thị xã thường ghé vào uống nước, nên tụi cảnh sát cấm bao giờ ghé vô. Cảnh sát và lính trận hồi đó ghét nhau còn hơn chó với mèo. Nhờ vậy mà Thủy trụ được qua hết thời lửa khói.
Thủy sống bằng nghề vẽ ở sân sau, cô vợ đứng pha cà phê sau quầy. Chạy bàn thì có thằng bạn thượng sĩ bị què chân trong trận đánh ở Bảy Núi. Lâu lâu Tùng Bá kéo đám bạn văn nghệ tới tổ chức một đêm thơ nhạc. Vậy là quán cà phê thành câu lạc bộ văn học. Tha hồ mà đọc thơ, hát nhạc phản chiến. Người nghe mỗi người mua li nước. Sau vài đêm thơ gom lại cũng đủ tiền in một tập thơ chung…

Minh họa: Hải Kiên
Có ba đứa mà cưa hết nửa can rượu, đứa nào cũng say quắt cần câu, ngủ vùi tới bửng mặt trời cả con sào mới hé mắt ra được.
Dũng Hạnh phàn nàn: “Má nó chứ! Chuột gì đâu mà dám gặm lủng cả gót chân của tao”. Đúng là mấy con chuột đồng gan thật. Không biết con quái nào đã gặm gót chân của Dũng Hạnh đụng vô tận thịt. Anh ta say tới mức bị chuột gặm tới rỉ máu mà cũng không biết. Tùng Bá nói: “Để tao lội xuống mương móc đất sét trắng cho mày nhét vô gót chân. Xứ này người ta dùng đất sét trắng khử trùng đó mày”.
Ngày hôm đó Tùng Bá bỏ bữa đưa vịt chạy đồng, phải tốn hết hơn giạ lúa làm thức ăn cho chúng. Thời gian còn lại chúng tôi kéo nhau đi tát đìa. Đi mỏi giò, tới ngang gò đất trống, Tùng Bá hỏi: “Mấy ông còn nhớ thằng Tổng không. Cấp trước nó dựng chòi vịt ở đây. Giờ nó theo xe đò làm lơ rồi”.
Ai chứ Tổng thì làm sao mà tôi quên đuợc. Tôi đã có lần ngồi nhậu trong chòi vịt của nó. Cái chòi túm húm, cất bằng cây chà là, lợp lá dừa nước. Bên trong có treo mấy tấm lịch con gái hở giò hở cẳng. Hỏi treo chi lịch cũ từ năm nảo năm nào thì nó cười hềnh hệch. “Tui sống trơ trụi với bầy vịt quanh năm, buồn ngắt. Xin tụi nó lịch cũ về treo coi cho đã mắt, đỡ thèm”.
Tổng quả là người máu mê đeo nghề nuôi vịt đẻ. Anh ta mê nuôi vịt tới mức nghèo trắng tay. Dân gian người ta chẳng đã nói là gì. “Muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt”. Nhưng nuôi để nghèo thì ai mà nuôi. Người nuôi vịt chạy đồng cũng giống như người nghiện. Họ nghiện nuôi vịt. Nuôi vài ngàn con. Trúng một mùa trứng là hốt bạc triệu. Vịt chạy đồng mùa gặt, nào có tốn đồng thức ăn nào. Bán trứng đã đời rồi thì bán vịt. Tiền thâu về cất nhà tường dễ ợt. Nhưng gặp năm vịt bị dịch, chúng lăn ra chết trong chớp chá, lỗ trắng tay trắng mắt. Hồi đó Tổng hai năm liền trúng được mấy vụ nuôi vịt chạy đồng, cất nhà, mua sắm đồ dùng ì xèo. Anh ta tậu riêng cho mình cây ghi ta phím lõm, đêm đêm ôm đàn ngồi nghêu ngao vọng cổ trong chòi. Ở nhà vợ và đứa con gái bật ti vi xem cải lương. Sướng đã đời đến mức vậy nhưng Tổng vẫn không nghe lời vợ ở nhà mở quán tạp hóa, vẫn thui thủi trong đồng nuôi vịt. Liền tù tì ba mùa vịt sắp đẻ thì lăn ra dịch. Lỗ tới xương. Đồ đạc trong nhà thi nhau chạy bay chạy biến ra tiệm cầm đồ. Vợ bàn nghỉ phắt về chạy chợ kiếm sống, ráng giữ ngôi nhà cho con. Nhưng đã là người máu mê, đời nào Tổng chịu nghe theo lời vợ. Anh đem ngôi nhà đi thế chấp để vay tiền ngân hàng, quyết chí nuôi vài ngàn con vịt để gỡ lại. Chị vợ buồn, mua thuốc rầy về uống để dọa chồng buông khỏi cái nghề bạc bẽo. Ai dè dọa phải cái đêm ông chồng say rượu. Con nhỏ, chồng say, đêm hôm khuya khoắt không một người hay biết, chị vợ bị lặm thuốc chết tức tưởi vì dại dột. Bà ngoại đến ẵm cháu về nuôi. Tổng chán đời, đêm nào cũng nốc cả lít rượu. Tôi gặp Tổng trong hoàn cảnh ấy.
Bữa đó tôi với Tổng ngồi nhậu cháo vịt và khô cá lóc. Khi rượu đã đà đà, bỗng ở đâu thòi ra một cô gái móng tay móng chân lòe loẹt. Thấy cô ta, Tổng xua tay đuổi như đuổi tà. “Bữa nay tui có khách, cô về đi!” Khi cô gái đã chìm trong ráng chiều đỏ sẫm, Tổng nói với tôi: “Gà móng đỏ đó. Nó cho thiếu chịu tới mùa trả bằng hột vịt. Mỗi đêm chỉ ba chục hột. Mình đã nghèo nó còn nghèo hơn mình”.
Đúng là Tổng đã nghèo trắng tay. Lứa vịt năm ấy cũng lăn ra chết vì dịch khi đã gần đến mùa đẻ trứng. Vậy là ngôi nhà chiu chắt bao nhiêu mùa chạy đồng cũng đội nón mà đi. Túng cùng, Tổng phải xoay qua làm lơ xe đò.
*
* *
Ngồi nghỉ trên gò đất một lúc, ba chúng tôi mới chọn một khúc đìa bỏ hoang đã có sẵn bờ đắp mà tát. Tát xì xạch gần hết nửa buổi mới cạn. Cá đen được chừng vài kí, cá trắng vài kí, rắn nước vài con. Coi như thắng đậm một ngày nhậu đã đời.
Rượu cạn từ chiều nên buổi tối chúng tôi chỉ ngồi uống trà hàn huyên chuyện cũ. Tùng Bá nói: “Thằng Thủy số sướng. Tới giờ cũng vợ nuôi. Còn nó, bán được bức tranh nào cũng nướng hết vô rượu. Nó say khật khừ suốt cả ngày đêm. Có bữa chuếnh choáng trong cơn say, nó chặn đường cả vị sư già đi bát, thản nhiên mở bát ra, lựa lấy hết mấy thức đồ chay có thể làm mồi nhậu. Đã vậy còn dặn vị sư tịnh độ cư sĩ, đúng giờ này ngày mai đợi nó ở đó để nó xin mồi nhậu. Vậy mà nhà sư cũng nghe lời mới lạ”.
Tôi biết Thủy từ lâu. Biết là nhờ có Tùng Bá mà biết. Ấy là cái dịp Thủy ôm giá vẽ và sơn dầu theo Tùng Bá vào đồng. Anh ta ngồi dưới gốc me keo, chong mắt nhìn ra đồng mà vẽ. Vậy mà trong tranh chẳng có một chút gì đồng áng. Toàn là những bệt màu vây kín một hình nhân. Hình nhân ấy dù là trai hay gái, già hay trẻ, bao giờ cũng dài thườn thượt, buồn tới chảy ra nhễu nhão. Tôi hỏi: “Ông nheo mắt ngắm đồng điền cả buổi, mà sao chẳng thấy bờ ruộng, chẳng thấy lúa má, chẳng thấy trâu bò đâu cả?”. Thủy nhếch môi cười. “Thì đồng điền nó nằm cả trong tranh chứ đâu. Cái tông màu này là màu đồng buổi sáng. Cái tông màu này là màu đồng buổi chiều. Gương mặt cô gái này ướt sũng mùa lũ chụp. Còn gã đàn ông ngồi nhão ra này là tay nông phu trắng tay sau mùa gặt. Còn bức này này, gam màu của nó là gam màu của một cơn dông không nổ ra được cơn mưa. Ông xem có thấy ngột ngạt oi bức không? Tranh tôi vẽ sống được hay không là nhờ sự chuyển đổi của thế giới màu sắc. Đừng nói một năm, chỉ trong một ngày thôi, màu sắc đã chuyển đổi huyền ảo tới kì lạ. Mà thôi, nhậu mẹ nó cho rồi!” Nói xong câu ấy, Thủy nhìn tôi bằng ánh mắt cười cười rất lém lỉnh. “Thằng Tùng Bá nó nuôi tắc kè trong bộng cây. Nó đang đưa vịt chạy đồng. Để tôi trổ tài đạo chích, đãi ông vài con tắc kè nướng mọi”.
Thủy bẻ một cọng dây thép, uốn cong một đầu như cái lưỡi câu. Sau đó anh ta trèo lên cây me keo và thọc cọng thép vào các lỗ bộng. Từ trong đó tôi nghe rõ những tiếng kêu cộc cộc khàn khàn như giọng người già. Thế rồi từng con tắc kè được lôi ra. Con nào cũng cắn chắc lấy lưỡi thép, không chịu nhả ra. Thủy vung tay đập đánh chát con tắc kè vào cành cây. Con tắc kè rớt đánh bịch xuống đất. Tôi lượm được cả thảy bảy con. Chừng đó Thủy mới tuột xuống, cười hề hề. “Còn nhóc ở trển. Nhưng đừng ngu mà ăn hết, Tùng Bá nó chưởi cho mục mạng. Thịt tắc kè còn quý hơn, ngon hơn thịt rắn hổ nghen cha!”
Lần đó tôi nằm đồng xem Thủy vẽ hình nhân tới ba ngày. Sáng nào cũng thấy vịt đẻ trứng trắng đất. Cứ vào khoảng sáu giờ đã thấy người trong xóm chống xuồng cặp theo con mương chở cần xé ra hốt trứng. Đó là một người đàn bà xồn xồn, lúc nào cũng cười, bạ gì cũng cười. Kể ra thì chị ta cũng mặn mòi, chỉ tội mắc bệnh hay cười ha hả. Chị ta vừa hốt trứng vừa nhìn chúng tôi mà nói, mà cười. Không lần nào tôi thấy chị ta đếm cả. Tôi hỏi thì Tùng Bá nói: “Chỗ quen biết, không ăn gian đâu mà sợ. Nếu bà ấy đừng hay cười hí lên như ngựa, dám tui với bả đã thành thân. Mà bà ấy còn quý tôi lắm. Cách đây ba năm, bà ấy cho tôi phân nửa số tiền in tập thơ Mùa vịt, thằng Thủy vẽ bìa. Vịt gì mà giống mấy cái dấu chấm hỏi, mấy cái số không. Hỏi thì nó nói, không phải vậy sao. Chừng thằng Tổng trắng tay tôi mới hiểu ra điều đó. Những con vịt ngóc đầu lên như dấu hỏi trên đồng đất; những hột vịt như những giọt nước mắt, giọt mồ hôi tròn tròn con số không của người nuôi vịt chạy đồng. Được cái đôi mắt của hình nhân trông ái nam ái nữ từ trong bìa nhìn ra, sao mà giống đôi mắt bà ấy vậy. Ngắm cái bản mặt méo mó ấy một hồi, tự nhiên mắc cười phá ra thành tiếng. Khi bà ấy nhìn thấy cuốn sách, bà ấy cười lăn cười lộn, cười tới chảy nước mắt, cười tới mức phải ôm chầm lấy tôi cho khỏi té xuống đất”.
Sau cái đêm uống trà hàn huyên ấy, trưa hôm sau tôi đi thăm một anh bạn viết nhạc cũng đang sống bằng nghề nuôi vịt chạy đồng. Còn Dũng Hạnh ở lại với Tùng Bá để hoàn thành chương cuối cuốn tiểu thuyết Nuôi vịt chạy đồng.
*
* *
Tôi ra đi lúc mặt trời đã hơi chếch bóng. Đồng đang mùa nắng. Gió chỉ liu riu vài sợi như ve vuốt thịt da. Tôi đi về hướng tây đã hơn hai tiếng mà thấy giăng cây trước mắt vẫn còn xa mù mịt. Mỏi nhừ vì lội bờ lội vũng, tôi ngắm một cái chòi canh dưa, định bụng tới xin chén nước.
Tới nơi, tôi thấy có một ông già bắc ghế ngồi dưới giàn mướp.
Ông già nhe răng cười với tôi.
“Hên rồi. Chờ cả tiếng mới thấy có người ghé vô. Hồi sáng thằng cháu đem vô biếu cân thịt bò. Ăn không thì uổng, mà nhậu thì phải có bạn. Chú ngồi đây với tui, tui làm món tái lẹ cấp kì”.
Máu viết lách níu chân tôi lại.
Khi dĩa mồi đầy tú hụ được bày ra, ông già nói với tôi: “Như vầy nghen. Tui uống hai li chú mới được uống một li. Là vì chú chưa say, ra ngoải còn kiếm được rượu mà uống. Còn tui ở giữa đồng, không say thì làm sao mà ngủ. Ngủ không được thì chỉ còn có nước nằm mà nghe gió thở than não nuột. Nói thiệt với chú, không gì khổ bằng cả đêm phải nằm chong mắt nghe gió đồng than thở”.
Tôi làm theo lời ông già.
Trời ạ! Cả một ấm rượu gần ba lít mà ông ấy sợ hết. Có tôi sợ thì có. Tôi càng uống càng bị cuốn theo cách uống của ông già, tới mức tôi quên mất ý định của mình, tới mức tôi say gục ngay tại chỗ. Chừng tỉnh ra, tôi thấy mình nằm trên bộ ván còng, nằm trong cái mùng vải vàng quạch màu phèn. Ông già vẫn còn ngồi chắp chân chữ ngũ trên tấm đệm trải dưới đất. Không phải chỉ có mình ông già, mà còn có thêm cây đàn cò. Cây đàn rên rỉ một điệu oán buồn hiu hắt. Giọng khào khào như gió thoảng của ông già còn buồn hơn. Ông già ngồi day mặt nhìn ra cánh đồng tối hù tối hịt. Không nhìn lại, nhưng ông già vẫn linh cảm được là tôi đã thức. Cây vĩ vẫn cò cưa trên sợi tơ, nhưng ông già thì không ca nữa. Ông nói: “Chú tỉnh thì ra ngồi ăn cháo cá cho khỏe. Cháo cá lóc. Qua bỏ nhiều tiêu với hành để ăn cho ra mồ hôi, cho giã rượu”.
Vậy là lại ngồi nhâm nhi trong chòi giữa cánh đồng rười rượi gió. Ngọn đèn hột vịt cháy hiu hắt như toát ra nỗi buồn vô cớ. Ông già chỉ tay ra cánh đồng đen sẫm như có thể sờ thấy màu đen mát lạnh.
“Chú có thấy ngọn lửa cháy rưng rức ngoài kia không? Chắc là thằng Tùng Bá nó đốt rơm nướng vịt. Ban đêm mà thấy phía chòi của nó có lửa bùng lên là y như rằng nó nướng vịt. Thằng đó nghèo nhưng khẩu khí. Nó dám đeo ruộng nuôi vịt chạy đồng là vì bảy đứa con của nó. Nhà nghèo nhưng con cái đứa nào cũng hay chữ, cũng học thành danh. Để tui ca theo điệu Khốc hoàng thiên cho chú nghe một bài thơ của nó. Tui ghiền thơ nó chú à. Ghiền từ hồi trước giải phóng. Thơ là phải có tình. Muốn có tình thì phải biết sống hết mình. Nó ra giữa đồng, chỉ ôm cái ra-dô (radio) mà biết hết trơn hết trọi mọi chuyện tốt xấu trên đời. Thỉnh thoảng qua cũng bỏ chòi qua thức đêm với nó. Nó là lính Sài Gòn nhưng lại được xây nhà tình nghĩa, vì ba nó hi sinh trên tuyến đường Trường Sơn trên biển, anh nó hi sinh ở sông Trẹm Cà Mau, chị nó hi sinh năm Mậu Thân sáu tám. Nó có đi làm ở hội gì đó một thời gian, nhưng không được người ta cất nhắc vì cái tội hay háy mắt. Hay háy mắt mà lại còn hay đọc thơ của mình nên bị người ta ghét. Người ta cho là nó làm tàng, nó tự coi mình ngang với Lưu Linh, Lý Bạch. Nó kể chuyện tếu thì cóc trong hang cũng phải nhảy ra mà nghe. Nó ca cũng mùi, cũng mức lắm. Hai bác cháu thức ca cả đêm, gió đồng khoáng đạt chở tuốt lời ca đi đâu đó. Tùng Bá từng nói là gió chở về miền tâm linh của cõi người nuôi vịt. Mà nuôi vịt thì…”
Thức nốt phần đêm còn lại, tôi biết ông già cũng từng một thời theo nghề nuôi vịt chạy đồng. Một cây sào phất phơ túm vải, người nuôi vịt suốt ngày trần đầu dưới nắng, dưới mưa. Chống lại nắng mưa là cái nón mê, mép lá dưới vành rách te tua. Hai ống quần của người nuôi vịt chạy đồng cũng rách te tua như vậy. Quần ấy người ta gọi là quần què, bởi nó vàng chạch và ống cao ống thấp. Lội dưới ruộng thì thôi, chứ leo lên bờ là thòi ra hai ống chân mốc thiu mốc thếch. Lại còn những đám sẹo ghẻ bầm đen bầm tím vì bị đỉa trâu đeo vào hút máu, gây ngứa tới mức phải gãi tới trầy da mà sanh ghẻ.
Trúng mùa vịt cũng như trúng số, khó ai mà trúng được đều đều, bởi thời nay ruộng chứa đầy hóa chất diệt sâu rầy. Còn vịt bệnh thì ào ào ra đi trong vòng hai ba bữa, muốn bán chạy cũng không kịp, chỉ còn có nước vái thiên địa cầu may cho mùa sau. Mùa sau mà mất nữa, cầm chắc đói nghèo và đeo nợ đìa ra.
Ông già từng tán gia bại sản vì ba mùa liền vịt chạy đồng bị dịch. Hồi đó, vào lúc chiến tranh biên giới mới nổ ra, nghèo túng quá, vợ ông phải đi làm thuê làm mướn đồng người. Một quả pháo đĩ từ bên kia bắn qua, nổ vu vơ giữa buổi trưa đứng nắng, vợ ông đang ngồi ăn trưa bên đống lúa bị hất tung lên trời. Bà ra đi mà không tìm thấy cái đầu ở đâu để mai táng. Ông già ở vậy tới giờ. Không con không cháu, ông chỉ có cái chòi lúc nào cũng rưng rưng như khóc như hát giữa đồng.
Khi phương đông đã ưng ửng màu mận chín, tôi chào ông già để tiếp tục ra đi.
Chiều nay tôi biết chắc mình lại được sống giữa gió đồng khoáng đạt cùng anh bạn viết nhạc của tôi. Nhưng cánh đồng đó nằm ở bên kia sông Hậu. Nghĩ tới dòng sông tôi lại nhớ lời mời đi dự đám cưới người con gái lớn của Tùng Bá.
Ừ nhỉ! Tại sao lại không tổ chức một đám cưới giữa cánh đồng lộng gió. Tất cả những mái lều sẽ reo lên lời của gió. Tóc cô dâu sẽ xõa ra cùng với gió. Gió đưa lời chúc tình yêu tới miền tâm linh của cõi người chăn vịt chạy đồng. Và ở đó, mọi người sẽ nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh vì tình yêu cuộc sống của họ…
H.T.T
VNQD