Du xuân qua miền văn chương Việt Nam

Thứ Hai, 27/01/2025 06:40

. HÀ THANH VÂN
 

Chủ đề mùa xuân trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay được thể hiện qua nhiều góc nhìn phong phú, mang đậm chất trữ tình, lãng mạn và gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần, văn hóa của người Việt. Tết đến xuân về đem lại nhiều cảm hứng cho các tác giả, từ văn học dân gian đến văn học viết, tạo nên những tác phẩm mãi in đậm dấu ấn trong lòng người đọc.

Mùa xuân là biểu tượng của sự tươi mới và sức sống, là cảm thức về thời gian

Trong văn học nghệ thuật, mùa xuân thường được miêu tả như khởi đầu của một vòng tuần hoàn mới, mang lại sức sống cho thiên nhiên và con người. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp với nền văn minh lúa nước từ hàng ngàn năm nay. Do vậy, văn học dân gian của Việt Nam có không ít ca dao, tục ngữ nói về mùa xuân. Mùa xuân được hiểu là mùa của cấy trồng, gieo hạt, để hứa hẹn một vụ mùa bội thu vào cuối năm: Tháng giêng chân bước đi cày/ Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng/ Thuận mưa lúa tốt đằng đằng/ Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà. Tương tự, tục ngữ Việt Nam có câu “May mùa đông, trồng mùa xuân” để nhấn mạnh ý nghĩa của việc gieo trồng. Qua nhiều bài ca dao, nhiều câu tục ngữ về mùa xuân, độc giả ngày nay không chỉ được biết thêm cảnh sắc xưa, có thêm những tri thức mới, biết thêm các phong tục, lễ hội ngày xuân, mà còn cảm nhận được những tâm tư tình cảm mà người thời trước gửi gắm. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, mùa xuân được khắc họa bằng bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp: Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Cảnh sắc mùa xuân trong Truyện Kiều đầy sức sống, tươi trẻ và trong trẻo, tạo nên một bức tranh xuân bình yên, nhẹ nhàng, làm nền cho một mối tình thơ mộng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Vào thời hiện đại, Hàn Mặc Tử lại vẽ nên cảnh xuân đầy mộng mơ trong bài thơ Mùa xuân chín: Trong làn nắng ửng: khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang/ Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời/ Bao cô thôn nữ hát trên đồi/ - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi... Hình ảnh mùa xuân thôn quê đang dịu dàng, thơ mộng với những sắc màu rộn ràng, náo nức, bỗng có một khoảng lặng ngậm ngùi bởi có kẻ trong đám xuân xanh sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử có lẽ là một trong những bài thơ được độc giả biết đến nhiều nhất trong gia tài thơ của ông. Sự “chín” của mùa xuân cũng là sự trưởng thành trong cuộc đời của con người. Đó là một quy luật của muôn đời mà không ai cưỡng lại được. Trong ẩn ý câu thơ của Hàn Mặc Tử, dường như có một chút nuối tiếc về tuổi xuân ngắn ngủi của con người. Xuân Diệu thì lại bộc trực, thẳng thắn hơn và cũng mãnh liệt hơn khi viết: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

Cảm thức thời gian trong văn thơ về mùa xuân là một trong những chủ đề mang tính triết lí và nghệ thuật sâu sắc. Các nhà thơ, nhà văn Việt Nam thường gửi gắm những suy ngẫm về dòng chảy thời gian, sự vô thường của đời người và khát vọng nắm bắt những khoảnh khắc đẹp đẽ của cuộc sống, níu kéo tuổi xuân. Họ nói giúp cho tâm trạng của bao người, như Xuân Diệu từng viết “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân gian. Tâm trạng ấy, ngay từ thời trung đại, “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương từng ngậm ngùi tự hỏi sau những cảnh rộn ràng chơi đu ngày xuân với Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới/ Đôi hàng chân ngọc duỗi song song: Chơi xuân ai biết xuân chăng tá/ Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không. Nỗi khắc khoải thời gian khi tự ngẫm về mùa xuân luôn là điểm gặp nhau của những tâm hồn văn chương lớn. Đó là sự kết hợp giữa niềm vui sống, nỗi tiếc nuối trước sự hữu hạn của đời người và thấp thoáng ước mong lưu lại dấu ấn trong vòng chảy bất tận của thời gian.

Mùa xuân là biểu tượng của sự khởi đầu, lạc quan, hi vọng, thời khắc đoàn tụ và ước mơ hạnh phúc

Trong những biểu đạt trực quan của văn học, mùa xuân thường gắn liền với Tết Nguyên đán, là dịp lễ quan trọng nhất của người Việt, nơi mọi người sum họp bên gia đình. Không khí tết ngày xưa có thể đã vơi đi, phai nhạt bớt, nhưng chưa từng mất đi giá trị trong văn hóa tinh thần của người Việt. Nhà văn Thạch Lam khi viết về những ngày xuân năm 1940 đã khẳng định: “Tết! Còn dịp nào trong đời ta nhiều thú vị vui tươi hơn nữa. Ngày tết nhắc ta nhớ lại những tết đã qua, và khuyên ta an hưởng ngay cái tết bây giờ. Đêm giao thừa “thời gian qua nghỉ bước trên từng cao” là giờ khắc say sưa êm dịu nhất. Hưởng mùi thơm thủy tiên, cánh hồng hoa đào nở, hưởng làn khói trầm vấn vít đủ lên cao. Hưởng đi, trong cái khoái lạc của sáng suốt, trong cái minh mẫn của tinh thần, trong sự thư thái thảnh thơi của lòng bình tĩnh. Tiếc thương như gia vị và mong mỏi như làm ấm nóng cái thú vô cùng (“Nghệ thuật ăn tết”, Ngày nay, số Xuân, 1940).

Hình ảnh mùa xuân luôn gợi lên niềm tin yêu vào cuộc sống và tinh thần lạc quan, đặc biệt trong thơ ca cách mạng. Với Tố Hữu, mùa xuân luôn là hình ảnh gắn liền với cách mạng, với niềm hi vọng về một đất nước độc lập, tự do, thống nhất. Bài thơ Bài ca xuân 1961 gợi lên không khí mùa xuân cách mạng mê say, náo nức như vậy: Tôi viết bài thơ xuân/ Nghìn chín trăm sáu mốt/ Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt/ Nắng soi sương giọt long lanh.../ Rét nhiều nên ấm nắng hanh/ Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng?/ Giã từ năm cũ bâng khuâng/ Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường (tập thơ Gió lộng, Nxb Văn học, 1961). Với ý nghĩa là mùa đầu năm, mùa xuân thường tượng trưng cho những khởi đầu tốt đẹp và ước vọng cho tương lai, như bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải: Mùa xuân người cầm súng/ Lộc giắt đầy bên lưng/ Mùa xuân người ra đồng/ Lộc trải dài nương mạ (tập thơ Mưa xuân đất này, Nxb Tác phẩm mới, 1982). Mùa xuân trong thơ Thanh Hải không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà còn tượng trưng cho sức mạnh, niềm tin mãnh liệt vào tương lai của dân tộc. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chợ tết đã cho nhân vật Định trở lại với kí ức thời thơ ấu: “Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời, và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động” (tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 2/1988). Dòng chảy cuộc đời cuốn con người đi, nhưng tết chính là một dịp để người ta ngồi lại, nhìn lại và trân trọng, nâng niu những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần truyền thống. Tết bao giờ cũng gắn liền với sự sum họp, đoàn viên. Cũng vì ý nghĩa đó, có khi trong niềm vui ngày tết, có những tâm trạng buồn như nốt nhạc trầm lắng gieo vào lòng người đọc những bâng khuâng đến nao lòng. Nguyễn Bính là người được xem là có nhiều bài thơ về ngày tết, mùa xuân mang sắc thái buồn. Trong đó bài thơ Xuân tha hương nổi bật nhất với 100 câu và 13 lần xuất hiện từ “tết”, điệp khúc 7 lần câu thơ Tết này chưa chắc em về được/ Em gửi về đây một tấm lòng, thể hiện sự bơ vơ, lạc lõng của một thi sĩ không có một cái tết đoàn tụ gia đình, thiếu vắng tình thân, tình yêu. Trong thời đương đại, những truyện ngắn như Hai người đàn bà xóm Trại của Nguyễn Quang Thiều, Lời thì thầm mùa xuân của Nguyễn Thị Thu Huệ… đều mang âm hưởng buồn của sự chờ đợi, mong ngóng người thân vô vọng mỗi khi tết đến, xuân về.

 

Mùa xuân là biểu tượng của sự lãng mạn và tình yêu đôi lứa

Mùa xuân cũng được miêu tả như mùa của tình yêu đôi lứa. Mùa xuân gắn liền với sự yêu thương nồng nàn, tuổi trẻ tràn đầy đam mê và khát vọng sống, rạo rực, đắm say. Ca dao Việt Nam đã nói lên tâm tình của người thời xưa: Tháng giêng là tiết mưa xuân/ Đẹp người thục nữ thanh tân má hồng/ Muốn cho đây đấy vợ chồng/ Hay còn quyết chí một lòng chờ ai? Trong thời trung đại, một bậc đại nho như Nguyễn Trãi vẫn rất xuân tình khi ẩn ý: Tự bén hơi xuân tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ màu thâu đêm/ Tình thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem (“Cây chuối”, Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, 1976). Bài thơ đầy những hàm ngôn văn học về yêu đương đôi lứa. Nào là “bén hơi xuân” như một sự bén duyên tình, bén hơi bén tiếng. Nào là “buồng lạ màu thâu đêm” như một ám dụ về chốn buồng the, nào là “tình thư” thì “phong còn kín” nên đến gió cũng phải “gượng mở xem”. Trong văn hóa phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, cây chuối, buồng chuối hay lá chuối đều hàm nghĩa chỉ tính dục, sự sinh sôi nảy nở. Cây chuối trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ là cây chuối, mà là hàm ý chỉ tấm lòng xuân trinh trắng của người con gái đang chờ gió xuân đến lật mở xem. Nhà thơ đất Kinh Bắc Hoàng Cầm mấy trăm năm sau đã nối bước Nguyễn Trãi, giao hòa mùa xuân với tình yêu, làm thành những câu thơ giàu tính phồn sinh và nhục cảm, làm tâm hồn người đọc cũng “phập phồng” theo: Xuân hương thương xuân chồi yếm mỏng/ Phập phồng biển động sóng nao lòng/ Hai đường nhật nguyệt tròn nông nỗi/ Rưng rức vòm sao rẽ lối cong (“Tương biệt hành”, tập thơ 99 tình khúc, Nxb Văn học, 1996). Thơ xuân vì thế, cũng có nhiều khi là thơ tình!

 

Mùa xuân, ngày tết là sự nối tiếp, chuyển sinh của những nét đẹp văn hóa truyền thống

Mùa xuân, ngày tết không chỉ là những khoảnh khắc chuyển mùa, là biểu hiện cho sự tuần hoàn của trời đất, của quy luật thiên nhiên, mà còn là nơi lưu giữ những kí ức văn hóa đẹp đẽ, tồn tại và hiện diện, tiếp biến đến thời nay. Những phong tục, tập quán của người Việt vẫn được lưu truyền trở thành những giá trị tinh thần chung của dân tộc, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân. Tinh thần đó được đón nhận, thể hiện sinh động, ý vị trong những trang văn thơ của các văn nhân thi sĩ.

Trong tác phẩm Vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân có những câu từ đẹp đẽ tả cảnh thú vui thưởng hoa vào đêm giao thừa, ăn kẹo mạch nha, đi chợ tết… để cho thấy đời sống văn hóa phong phú của một tầng lớp người Việt xưa. Nhà văn Thạch Lam nói đến những mùa tết thanh đạm, tao nhã và thân thương, tràn ngập tình yêu mến. Ông viết trong truyện ngắn Cô hàng xén: “Các thiếu nữ trong ngày sắm tết có rất nhiều vẻ đáng yêu. Đi đâu mà vội vàng thế? Về chậm sợ mẹ mắng hay sao? Áo quần không kịp trang điểm, mái tóc không kịp vuốt ve, cho nên có một vẻ lơ đễnh, một vẻ xuềnh xoàng khả ái! Giờ này là giờ các cô đảm đang, đi mua đi bán, đem cái vui vẻ cho em trai và mẹ già, các cô hết lòng lắm. Chen lấn vào đám đông, không sợ bị chèn ép xô đẩy. Đi guốc cao cho khỏi lấm gấu quần. Và nhất là tự nhiên và dung dị” (Thạch Lam tuyển tập, Nxb Văn học, 2004). Với Gió lạnh đầu mùa, Thạch Lam tinh tế chỉ ra: “…ở ngoài bãi sông, tết lại có một vẻ riêng đặc biệt. Trông đứa bé đội mũ bông, áo mới dài và rộng, đeo chiếc khánh mạ vàng, nhặt ngòi pháo đốt, thấy cả cái tết ái ngại và nho nhỏ của cả một vùng” (Thạch Lam tuyển tập, sđd). Nhà văn Vũ Bằng có nhiều tác phẩm viết về tết làm lay động lòng người. Đó là những tác phẩm Mơ về những cái tết xa với những anh em văn nghệ tiền chiến, Chén trà đầu xuân, Ngoảnh lại trông xuân, Tranh gà tranh lợn với ngày tết Việt Nam… Đặc biệt, trong tác phẩm tùy bút nổi tiếng Thương nhớ mười hai, ngoài chương nói về tháng mười hai được đặt tên là “Tháng chạp, nhớ ơi chợ tết”, nhà văn còn dành riêng một chương cuối mang tên “Tết, hỡi cô mặc áo yếm xanh” để nhớ nhung, hoài niệm và ca ngợi những giá trị văn hóa tinh thần của ngày tết.

Ngày tết, mùa xuân mỗi năm lại đến một lần. Trong dòng chảy bất tận của thời gian, dù là cảm thức tuần hoàn hay tuyến tính, dù trong văn học dân gian hay văn học thành văn, dù trung đại hay hiện đại, mùa xuân vẫn neo đậu lại những bóng hình khả ái, gieo vào lòng người niềm lạc quan, hi vọng. Có phải vì thế, văn chương nghệ thuật với chủ đề - cảm hứng mùa xuân vẫn là mảng văn chương thời tính sinh sắc, khiến người ta thêm yêu cuộc đời và đắm say với sự sống.

H.T.V

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)