. VƯƠNG ĐÌNH KHANG
-1.
“Không có loại giặc nào ghê gớm hơn giặc cỏ, kể cả giặc Tây!”
Tía con Thảo nói vậy, cho dù nó hơi thắc mắc, cỏ nó có làm gì mình đâu tía? Sao gọi là giặc?
Ông Bảy Điền cắm cây sào dài, nhấn một nhát xuống nền sình dưới năm tấc nước. Chiếc xuồng ba lá rẽ một đường len lỏi, rạch đôi đầm lầy xanh sẫm, lem nhem như người ta xé miếng lá chuối. Mùi nước phèn bốc lên khai ngấy. Bầu trời vồng lên một vòm hiu hiu, úp xuống Đồng Tháp Mười cỏ ngập hút chân trời. Con Thảo mở nắp vung, xới cái nồi đất đương liu riu. Những hột cỏ lẫn trong gạo lứt đo đỏ, trở mình cho khói hắt hiu bay lên trời. Cà ràng (bếp) tròng trành khi mũi xuồng trợt qua bụi cỏ dày. Ông Bảy chặc lưỡi, coi chừng cỏ bắt lửa. Cỏ mùa này cháy dữ lắm. Nó hoảng hồn sửa lại nồi đất cho ngay ngắn, nóng quá nên chụp lấy dái tai xuýt xoa. Làn khói mỏng te nương theo gió, níu chân một đàn cò trắng muốt đương lượn một vòng lớn trên đầu. Cỏ rạp dưới cánh thiên di, cơn sóng đánh bay biến một gợn nhớ quê. Con Thảo nhìn cỏ, rồi nhìn qua tía, khăn rằn cột phất phơ mái tóc muối tiêu.
- Xứ này cỏ nhiều quá trời quá đất luôn tía!
Ông Bảy cười, hò một hơi dài mút mùa:
Hò… ơ…
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm…
Thảo nghĩ trong bụng, ai đâu mà tả đẹp dữ? Chớ từ hồi vào tới đất này nó chỉ thấy miên man và buồn hùi hụi. Cái xứ rộng mênh mông, nước phèn ứa lên xâm xấp. Màu xanh đó sao mà tiều tụy, nền trời đó sao mà vời vợi. Ngó tới chân trời, may lắm mới thấy nhấp nhổm một chóp nón lá. Đi cả ngày trời mới thấy lúp xúp một mái nhà. Cỏ tràn khắp nơi. Giang sơn này là của cỏ. “Cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy” mà.

Minh hoạ: Lê Trí Dũng
Đang miên man bỗng đâu con chó Mực đen trùi trũi đứng trước mũi sủa lên mấy tiếng ăng ẳng khi thấy cột khói đen bốc lên cao, tiếng ì ì phát ra đinh tai nhức óc. Là xáng cạp. Ông Bảy cho lủi xuồng vô, lán trại hiện ra. Thấy xuồng lạ tới, một đám người bước ra ngó. Ai cũng mặt mày bặm trợn. Dẫn đầu là một gã mặt chuột bận bà ba lụa trắng, đầu đội cái nón cối của Tây, huơ huơ cây roi da trên tay, hất hàm trỏ vào mặt ông Bảy:
- Thằng nào đó bây?
- Dạ thưa ông, tui thứ bảy. Cha con tui nghe nói ở đây đang cần nhơn công mần cỏ, đào kinh nên tới xin việc…
- Người già con nít, mần gì nổi?
- Dạ, tui là dân phát thiếp.
Gã mặt chuột tên Tư Trạch giật mình. Nếu thật là dân phát thiếp thì mừng lắm. Chỉ cần một thằng thì sức mần cỏ phải gấp năm bảy người thường. Người ta đồn tụi nó đi tới đâu cỏ rạp tới đó, nhìn tụi nó phát cỏ mà như múa hát, như có thần tiên về nhập hồn vậy. Ở mấy vùng khẩn hoang trồng lúa, tụi này được nông dân nể trọng. Nhưng cỡ này dân điếm đàng đóng giả làm phát thiếp rất nhiều. Ứng tiền trước, phát chưa bao nhiêu thì nửa đêm bỏ trốn. Tư Trạch chặn đầu trước:
- Thiệt hông à? Làm thử tao coi?
Ông Bảy Điền cười, xuống ghe lấy ra một cây phảng cổ cò dài sọc, cùng với một cây cù nèo mài bén ngót. Nhìn hai thứ đó, tụi trên bờ thối lui mấy bước. Thằng lính sau lưng Tư Trạch đổi vai đeo cây súng, cố tình làm tiếng động lạch cạch như muốn nói: “Liệu hồn!”.
Ông Bảy lẳng lặng tiến lên một gò đất mọc đầy lau sậy. Tay phải ông phát một đường phảng gọn hơ, cỏ sạt đi một nửa. Tay kia lóe lên nhát cù nèo, bụi cỏ rạp hết về một chụm. Nhát phảng cuối cùng, lau đứt tới gốc, sát rạt mặt đất. Hai tay ông múa lên múa xuống đều rang, bụi lau cao hơn đầu người loáng cái đã hiện con đường vô giữa.
Gã Tư Trạch nhìn, mừng thầm, nhưng miệng vẫn tỏ ra lạnh nhạt, đồng ý nhận hai cha con. Gã nói một lèo:
- Mày có thấy xáng cạp bao giờ chưa? Đó, cái máy tổ chảng bên đó đó! Người Tây đang muốn đào con kinh lớn xuyên từ đây tới sông Cái để dẫn nước mần ruộng. Có mấy nhánh phụ ở khúc trong cỏ mọc dữ quá, vừa sình lầy vừa nước ngập, cần phải phát tay. Tao đưa tụi mày vào đám nhân công trong đó, phải phát hết trước khi mùa mưa tới, hiểu hông?
Ông Bảy Điền không lạ gì cái máy khói đen ngòm đang xúc từng bụm sình đổ ra hai bên đó hết. Người Tây từ hồi qua đây, quy hoạch đào kinh dẫn nước, chia điền chia thổ khắp nơi. Đồng ý là làm vậy trồng trọt ngon lành hơn thiệt, nhưng tụi nó lấy đất người Nam cho ngược lại người Nam thuê, thuế má rất cao. Trúng mùa cỡ nào cũng khó mà dư dả nổi. Và cái máy đó thấy vậy chớ chỉ đào trên đất bằng được, gặp đầm lầy, cỏ mọc thì bó tay. Đó là lí do tụi Tây thuê tay sai, tuyển nhân công để mần cỏ, khai khẩn những vùng đầm lầy rộng lớn. Nếu không làm kịp trước mùa mưa, cỏ mọc lại thì bao nhiêu công sức, tiền của tan thành bọt nước.
Tư Trạch đang đi, chợt khựng lại suy nghĩ, quăng ra hai chữ:
- Hai chục cắc!
Ông Bảy ngập ngừng, định bụng hỏi hai chục cắc là lương cho hai cha con, hay cho một người? Rồi phải làm trong bao lâu? Nghĩ tới nghĩ lui, ông đành nuốt câu hỏi xuống, không dám mở lời nữa…
Tư Trạch đưa hai cha con ông Bảy vào miệt trong, nơi con kinh phụ đang đào dang dở. Trước khi đi gã dặn dò rất kĩ, không giống làm cỏ để trồng lúa, ở đây tuyệt đối không được đốt, lửa sẽ cháy lan hết cánh đồng, sang rừng, làng xóm không cách chi dập được. Phải chừa cỏ thấp hai bên bờ kinh để giữ đất, nếu không mưa xuống sẽ gây sạt lở, hư hết công sức mấy tháng ròng, lại còn bị Tây quở trách, trừng phạt.
Tối đó cha con ông Bảy nương thân trong căn nhà cỏ tranh vách lá với vài bà con nhân công. Con Thảo cầm cây chổi bó bằng cỏ bàng, huơ xẹt xẹt để dọn chỗ cho cha nằm. Cơm tối có hẹ nước luộc, vài con cá rô đồng kho, gạo lứt. Bà con thăm hỏi ông Bảy quê quán ở đâu, sao mà lạc tới đây. Ông nói gốc Đồng Nai. Khi ra đi nhà có ba người, sơn lâm chướng khí đã giữ vợ ông lại ở một cái gò nào đó. Bây giờ chỗ đó cỏ chắc đã lên xanh.
Một ông già trong đoàn nhân công râu tóc bạc phơ, ngồi vấn điếu thuốc trâm bầu, dàu dàu ngâm lên rằng:
Ra đi dao bảy dắt lưng
Ngó truông truông rộng, ngó rừng rừng cao…
Cây dao bảy tấc đó bây giờ biến thành cây phảng. Những kẻ lưu dân như ông Bảy, như bà con ở đây rày đây mai đó, không có miếng đất cắm dùi, lấy mồ hôi xương máu rải xuống đất hoang biến nó thành đồng ruộng. Nhưng miếng ruộng đó chua cay lắm, không phải của họ. Hoặc là của điền chủ, hoặc là bị cướp đi. Con Thảo vừa ngồi vuốt mớ lông mịn của con Mực vừa thều thào:
- Biết chừng nào mình có miếng ruộng cho đỡ khổ tía ơi!
2.
Biển cỏ trải dài như một cơn mưa mịt mù, xa khuất tới tận chân trời. Đoàn người khẩn hoang mòn mỏi phát cỏ, liên miên bất tận, không thấy điểm dừng. Trừ ông Bảy Điền có nghề ra, những người còn lại làm rất vất vả. Vài người chém tới chém lui, gặp ngay cỏ bàng có bọng, không đứt lìa, dai nhách trêu ngươi. Vài người che chắn chưa kĩ, lông cỏ lau bay vô mắt đỏ lè sưng vù, nước trào ra giàn giụa. Đến mớ cỏ dưới đầm lầy trồi đầu lên sũng nước đâu có xài phảng được, phải nắm đầu cắt bằng cù nèo. Rồi cả mớ nằm dưới tầng đáy phải bước xuống mò mà nhổ. Gặp gốc cây lớn, phải hai ba người tụ lại dùng búa chặt, nhổ bật gốc. Con Thảo còn nhỏ, lại yếu sức, mò mới chút xíu tay đã bị cỏ cắt đỏ lừ, thịt da rướm máu. Nước phèn ăn khoét tới bật máu ngón chân, nó phải lấy dầu mù u xức. Phát qua một đoạn, gốc cỏ cứng đâm tứa lên như chông, người ta lùa trâu qua dẫm cho nát. Mà đoàn khẩn hoang chỉ có một con trâu ốm nhách, thúc làm hoài sợ nó chết…
Vậy mà qua một đêm sương đẫm, bước ra thấy khoảng đất hôm trước đã dọn xong mầm cỏ lại trồi lên lún phún. Bà con than trời, ông Bảy Điền nín lặng nắm tay con Thảo bước xăm xăm ra mần tiếp. Bởi ông biết có than khóc cũng không thay đổi được gì.
Nhưng đâu chỉ giặc cỏ thôi đâu. Xứ này còn trăm ngàn trắc trở. Đỉa vắt như bánh canh, bước ba bước là đạp trúng. Muỗi mòng bay thành đàn, nghe u u, tấn công con người không kiêng dè gì hết. Rắn cỏ trườn sột soạt, ngóc cái đầu xanh lè ngó đoàn khẩn hoang quay quắt. Nước nhiễm phèn, chua loét, phải lóng cho thiệt kĩ mới dám uống. Rồi sốt rét, thương hàn, kiết lị. Đoàn người khẩn hoang gục dần, kẻ bịnh liệt giường, người vong thân, chôn thây vào sình đất nuôi đầm lầy. Có đứa nhỏ trong đoàn nóng hầm hập, má nó vắt kiệt không ra miếng sữa, bóp đỏ đầu vú nổi gân xanh. Cuối cùng, bà mẹ đành đút tay vào miệng con, thằng nhỏ nút chùn chụt. Bà run giọng ru cho nó ngủ đặng quên cơn đói, câu ru xanh xao, đắng chát mùi đời.
Thiên nhiên đã khắc nghiệt cỡ đó, lại còn thêm sự chèn ép từ con người. Đám lính và tên Tư Trạch ngày nào cũng tới đốc công, nạt nộ rất dữ. Cây roi da trên tay gã quất vào lưng những người làm chậm tét thịt bật máu. Không ai dám chống cự, bởi súng ống luôn lăm lăm trên tay tụi nó. Ban ngày làm không kịp tiến độ thì ép làm đêm, lại không cho đốt đèn vì sợ cháy. Người ta phải lủi đầu trong bóng tối mà làm. Có lần con Thảo lỡ tay, giật đám rễ cỏ tranh mạnh quá, văng bùn vào bộ bà ba bóng loáng của Tư Trạch. Gã nổi điên, đá mạnh vào bụng con nhỏ. Con Thảo quằn quại, gào khóc, co quắp trên mặt sình non. Ông Bảy thấy vậy, giận run người, xách phảng đứng lên hét lớn như trời gầm:
- Mầy không được đụng tới con tao!
Tư Trạch nhìn tên thủ lãnh nhóm nhân công thường ngày hiền lành, chịu cực chịu khổ, nói năng từ tốn nay trông như con dã thú sổng chuồng. Mắt ông Bảy đỏ ngầu, tay siết cây phảng sáng choang lừ lừ tiến tới. Vài người cũng bất bình khi thấy đứa con nít bị hành hung, tay cuốc tay búa ngó đăm đăm. Tư Trạch hoảng hồn, tụi này mà làm loạn thì nguy, kì hạn Tây giao sắp đến rồi. Nghĩ vậy, gã đưa tay đè nòng súng tụi lính xuống. Đoạn nhát gừng:
- Đẻ con không biết mần! Cắt cơm nó hai ngày cho tao!
Đám lính bỏ đi. Biển cỏ đìu hiu. Ông Bảy ôm con trong tay, nước mắt chảy dài. Ngó gương mặt đau đớn của con mà ông thấy sao giống má nó quá. Trời cao đất rộng mà không có chỗ bình an. Ông lầm bầm: “Tía có chết cũng không để cho con khổ nữa!”.
Rồi bữa đó mưa trái mùa. Mưa rào rào, giông gió ào ào, chớp giật đùng đùng. Sình đất từ hai bên bờ kinh đắp tay sạt lở đoạn lớn đổ xuống lấp hết đường nước. Mớ cỏ chưa kịp dọn trôi theo dòng tụ lại một cục, ứ nghẹn. Ông Bảy dẫn đầu bà con chạy nhào ra khai thông chỗ nghẹt. Tụi lính mặc áo tơi xuống tới nơi hả họng mạt sát như mưa chính là do đám nhân công gây ra chứ không phải do trời.
Mưa xong, qua một đêm, con Thảo bước ra thì hỡi ôi, vùng biển cỏ phát nửa tháng trời nay đã lên xanh um, mướt rượt. Nó ức tới ứa nước mắt, sụt sùi quay vô nhìn cha. Ông Bảy lắc đầu quăng cây phảng vô xó nhà. Hai cánh tay ông đầy thẹo cỏ cắt, vết mới chưa kéo da non chồng lấp lên vết cũ. Nó ngó xuống tay mình, cũng chằng chịt thẹo. Mười cái móng tay phèn đã đóng lên vàng khè, dày cộm, rửa hoài không ra.
3.
Ông Bảy Điền sốt rét nằm rên hừ hừ trên manh chiếu đan bằng cỏ bàng. Ông làm việc nặng nhọc cả đời, ngày thường khỏe mạnh, chớ khi bịnh quật ngã luôn không phải giỡn chơi. Con Thảo lo lắng, hết nấu cháo rồi sắc thuốc, đi ra đi vô không ngừng. Bà con thấy vậy thương mà không giúp được gì. Ông Bảy mê man, lắm khi còn nói sảng. Con Thảo dấy lên trong dạ ý nghĩ hổng lẽ hết má rồi tới tía bỏ mạng nơi sơn lâm chướng khí. Rồi nó sẽ thành đứa mồ côi trôi sông lạc chợ. Nghĩ tới đó nó oà lên khóc...
Có người trong đoàn nói chỗ thằng Tư Trạch có thuốc Tây, nghe nói thần hiệu lắm. Cứ xin, biết đâu nó nghĩ tới con kinh, sợ mất người làm giỏi cho vài viên thì đỡ lắm. Con Thảo như người ngộp giữa dòng chụp trúng gốc chuối, tức tốc băng ra ruộng cỏ, chạy dọc theo bờ kinh đắp lem nhem. Con Mực chạy theo, hai cái bóng nhấp nhô biến mất vào màn đêm đen kịt.
Lán trại sáng ánh đèn măng-xông rực rỡ, tiếng nhạc dội ra tưng tưng, tiếng cụng li côm cốp. Tư Trạch nhìn ra, thấy con nhỏ nhân công đứng trân, liền ngoắc tay vào. Con Thảo bất giác run sợ, nó vẫn nhớ cú đá vào bụng đau thấu trời xanh.
- Mày ra đây làm chi?
- Dạ… dạ… Tía con bị sốt rét… Nghe nói ông có thuốc Tây…
Nó vừa trả lời, vừa vò chéo áo, chân cẳng không ai xui khiến mà lùi một bước. Cả bọn cười ồ lên:
- Tưởng ai? Ông Bảy mà cũng bịnh sao?
Tư Trạch đứng dậy, loạng choạng mém té, phải chụp lấy cái bàn để giữ thăng bằng. Gã chân thấp chân cao, bước lại tủ lấy hũ đổ vài viên thuốc màu trắng ra lòng bàn tay chìa ra. Con nhỏ mặt mày xanh rờn, ngập ngừng tiến tới đưa tay đón, nắm chặt mấy viên thuốc trong lòng bàn tay. Nó mừng quýnh trong bụng, mở miệng tính cảm ơn rồi cắm đầu chạy liền. Nhưng không kịp nữa rồi, bàn tay kẻ đối diện như cái thòng lọng siết cứng ngắc. Nó điếng hồn, chết trân không biết làm sao, trong khi lũ lính cười nham nhở vỗ vai nhau lục tục bỏ đi cho Tư Trạch ở lại “mần việc”.
Con Thảo bị đè ngửa, hai tay khoá cứng, chân đạp bịch bịch vô vọng xuống nền đất thịt. Tư Trạch ngồi đè lên bụng con Thảo, liếm mép nhìn áo bà ba chắp vá mỏng te, lấp ló da thịt con gái mới lớn, mùi hương trinh nguyên lởn vởn. Máu nóng bốc lên đầu, gã đưa tay xé toạc vạt áo, nụ hoa mười sáu bung tỏa mượt mà, say đắm. Con Thảo nước mắt giàn giụa, chân đạp yếu dần, yếu dần…
Thế rồi con Mực thấy chủ bị tấn công, nó nhào vô táp lấy cánh tay Tư Trạch. Tư Trạch gào lên rát họng. Tụi lính tráng đã đi tuốt đằng xa, khuất sau bụi cỏ, vừa hút thuốc vừa cười tủm tỉm: “Ông Tư chơi đáng mặt quá chớ!” Cùng lúc đó, thấy Tư Trạch lơi thế, con Thảo đẩy bật gã ra vùng chạy. Tay vẫn nắm chặt mấy viên thuốc ướt sũng, mặn chát.
4.
Ông Bảy trở mình tỉnh giấc bởi tiếng ai đó khóc. Tiếng hức hức nén chặt. Ông nhìn quanh, căn nhà tranh tối tui, tiếng ngáy từ vài người nhân công dội ra ở một góc khác. Chắc họ làm mệt quá, đã ngủ say như chết. Ông thấy đầu óc tỉnh táo hơn một chút, bèng ráng sức đi ra cửa coi có chuyện gì. Tiếng khóc phát ra từ bụi cỏ lau gần đó. Ông thì thào:
- Đứa nào đó bây? Thảo hả con?
Ông tiến lại gần, hoảng hồn thấy đứa con gái của mình đang co ro trong bụi cỏ, xác xơ vụn vỡ. Áo bà ba bị xé rách, da thịt lồ lộ ra ngoài, mặt mày lem luốc, ông gặng hỏi mà nó không trả lời, khóc càng ngày càng dữ. Ông Bảy cởi áo choàng qua người con. Đoạn con nhỏ đưa bàn tay còn run bần bật, xòe ra mấy viên thuốc Tây màu trắng.
Cả cuộc đời ông Bảy chưa bao giờ tức giận như lúc này. Răng cắn phập vào môi tứa máu, tay nắm cứng nghe răng rắc. Cơn sốt rét kéo tới, nửa lạnh nửa nóng - táng vào đầu ông một đòn choáng váng. Lời vợ như văng vẳng trong tai, lời hứa trước lúc bà chết, rằng “tui sẽ lo cho con mạnh giỏi, nên người”. Cả đời cơ cực như cơn cuồng phong, nén tụ đổ sầm sập lên vai. Ông Bảy gào không thành lời, gầm gừ như con thú trúng thương.
Cây phảng. Cây cù nèo. Ánh thép lóe lên dưới ánh trăng.
Bóng ông già tan vô màn đêm.
Khi ông Bảy Điền chạy tới lán trại của tụi lính đã thấy đám người đứng vây quanh Tư Trạch. Cánh tay gã quấn băng trắng, mặt mày nhăn nhúm đen kịt. Dưới chân bàn con Mực nằm trong vũng máu. Ông gầm lên vung phảng nhào tới. Tiếng súng vang lên đanh gọn. Làn khói mỏng bay lên mùi diêm sinh. Ông già đang sốt rét còn có nửa cái mạng quỳ sụp xuống. Máu từ cánh tay ông tuôn xối xả. Tư Trạch cười nửa miệng, rít qua kẽ răng:
- Lôi đầu nó vô đây cho tao!
Hai tên lính dợm chân bước ra, tính nắm tay ông kéo sệt theo nền đất. Bỗng ánh thép lại lóe lên, xẹt qua khoảng giữa vai hai tên, nhanh như con bói cá thả mình xuống sông. Cây cù nèo xoay tròn, cắm phập vào vai Tư Trạch. Gã gào lên, bao cuồng nộ bung ra hết. Chưa bao giờ kẻ hét ra lửa, ăn trên ngồi trốc như gã mà phải chịu nhục nhã và đau đớn nhiều như bữa nay. Khi tụi lính còn đang bất ngờ, ông Bảy Điền vùng chạy, nhảy thẳng xuống đồng cỏ sình bùn quấn chân. Tư Trạch loạn trí, nổ súng đùng đùng, thúc tụi lính đuổi theo bắt cho bằng được thằng phản loạn. Nhưng đồng cỏ đối với ông Bảy như sân nhà. Từng bụi cỏ ở đây ông rành tụi nó như là chái bếp, hiên sau. Tụi lính bị ông bỏ lại mất hút. Chân ông đạp rạp một con đường quanh co, ngoằn ngoèo, đâm sâu vào bao la bát ngát, mải miết tới khi kiệt sức mới té dúi dụi rồi ngửa mình trên một bụi cỏ tranh. Tiếng la hét còn văng vẳng, nhạt nhòa như từ kiếp nào.
Trước mặt ông là bầu trời đêm với những vì sao sáng. Này là sao Bắc Đẩu, cong cong như cái gáo dừa. Này là sao Hôm, chỉ đường cho người đi. Kia là sao Thần Nông, hình cái mão cánh chuồn. Còn đó… là bà đó sao? Bà lên trời rồi sao? Ông già bật khóc. Bao nhiêu nước mắt nín nhịn cả đời người bây giờ không kìm được nữa tuôn như mưa xuống nền sình ẩm. Những ngọn cỏ phất phơ, bay lả tả trước tầm nhìn của ông già. Ông Bảy nhớ tới con Thảo, nhớ con Mực, nhớ một buổi chiều tà nào đó nhìn ráng đổ vàng cả vùng thảo điền. Ông nhớ thứ cơm có lẫn bông cỏ trong đó. Nhớ tới chiếc vòng cỏ ông đeo vô tay bà. Nhớ mùi cỏ cháy ở quê nhà…
Con cúi trong tay ông Bảy leo lét soi rọi một vùng đen đặc. Lửa từ một chấm nhỏ khởi phát thành một bông hoa bung xòe rực rỡ. Tiếng nổ giòn lách tách, như tiếng củi dừa bập bùng dưới đít nồi cơm. Những tiếng lách tách nối đuôi nhau chảy tràn khắp nơi. Những tàn tro chấp chới như những con đom đóm đỏ rực bay biến vào miên trường. Đêm đen sáng trưng kéo tới tận chân trời, như một buổi bình minh hừng hực nắng. Biển cỏ hát vang bài ca tuyệt vọng, vĩ thanh là một điệu xuống xề buồn hắt buồn hiu. Những sợi buồn đó quấn lấy nhau rồi đứt rời...
5.
Một năm nào đó có gia đình lưu dân đặt dấu chân mình lên vùng đầm lầy Đồng Tháp Mười. Hai vợ chồng già, ba đứa con, hai đứa cháu. Trong khi tụi nhỏ bỡ ngỡ, sợ sệt trước một mảnh đất lạ hoắc, hoang hóa, cỏ cao hơn đầu người, mà nước phèn thì xâm xấp bắp chuối, người lớn trong bụng lại vui mừng. Cái chỗ này không có người. Chỗ đó chỉ có trời vời vợi, có đất thênh thang, có cỏ và nước bạt ngàn. Gia đình nhỏ đó sẽ là một hạt giống, nảy ra lá mầm đầu tiên, rồi nhơn ra triệu triệu cây cỏ hoa màu sau này. Đời ông bà chắc sẽ vất vả, đời cha mẹ từ từ khá lên, rồi tới đời mấy đứa nhỏ sẽ ấm no. Khi đó, có thể người ta sẽ kéo tới mở đất, lập ấp. Rồi sẽ có chợ, có trường, có ruộng, có vườn. Nhưng trước hết, việc phải làm là diệt trừ giặc cỏ, rồi cải tạo nước phèn, đào kinh đắp đê, năm này qua tháng nọ cái đã.
Họ không sợ cực, lưu dân đời họ quen rồi. Ông già mừng lắm, dạy cho con cháu từ chuyện lấy phảng mần cỏ, đến chuyện lắng phèn, rồi chuyện gieo trồng.
- Muốn cỏ nó hết lên nữa, cách duy nhất là mình trồng lúa lên đất!
Ông già nói vậy. Cái quy luật bất biến muôn đời, đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được. Đám con trai liền kéo nhau ra đánh lộn với thiên nhiên, trong khi đàn bà con gái thì lân la học cách nấu ăn, tắm giặt với nguồn nước cam đỏ. Họ dõi theo cách sinh sống của tôm cá, cóc nhái. Họ dần dà biết được thứ cây cỏ nào ăn được, thứ nào không.
Bà già tên Thảo, trong một lần ngó đất ngó trời, kể con cháu nghe chuyện khai khẩn vùng đất này. Thuở đó người Tây đòi đào kinh dẫn nước ngọt để phân điền, phân đất. Nhưng giặc cỏ nó mạnh hơn giặc Tây, đánh hoài không hết. Tụi nó không dám dùng lửa, sợ không kiểm soát được trận cháy. Tụi nó bắt dân khẩn hoang phải làm bằng tay, phát hết từng gốc cây ngọn cỏ. Rồi một ngày, đồng cỏ bị người ta đốt trụi, cháy ba ngày trời, lan ra tận rừng rậm và xóm làng lân cận. Cỏ cháy, tro bụi lắng tụ, tắc hết kinh mương, làm sạt lở hết gò đê mà người Tây tốn biết bao nhiêu tiền của để khai thông. Đã vậy, đám lính Tây không chạy kịp cũng bỏ mạng không ít. Mấy cái xáng cạp to lớn cũng nổ tanh bành. Người Tây buông tay, hoảng hồn chống đỡ những trận bất bình nổi dậy ở khắp nơi. Chỗ này từ lúc đó bỏ hoang luôn, cho tới khi nhà bà tới đây khai khẩn…
Bữa thằng cháu lớn cuốc đất trồng thêm khoai, nó la ới lên, kéo hết người nhà ra coi, dưới lớp đất ngoi lên một mẩu xương trắng phếu. Bà già nắm tay cháu cố, run run giẫm lên đất sình. Bà nhìn mấy mẩu xương, bất ngờ òa lên khóc nức nở. Tụi con cháu ngạc nhiên, người dưới đó là ai. Làm sao bà già lại khóc. Đó có thể là những gì còn lại của một tiền nhơn nào đó tới đây khai khẩn rồi bỏ mạng giữa rừng thiêng nước độc. Chính bản thân bà già cũng không biết đó là ai. Nhưng cái xứ này hồi nào tới giờ đâu có gì là chắc chắn.
Người ta đắp một nấm mộ giữa đồng, hương khói thành tâm. Họ mang ơn người vô danh vì đã góp mình cho vùng đất này. Lúa phủ vàng tới tận chân trời. Nấm mộ chơ vơ giữa biển lúa, gió thổi qua từng cơn sóng gờn gợn. Trên nấm mồ mọc lên một cái cây, nở ra bông hoa đỏ rực như lửa cháy. Một cánh hoa tàn dứt nhuỵ, theo gió cuốn bay biến vào đồng lúa mênh mông…
V.Đ.K
VNQD