. NGUYỄN TRỌNG LUÂN
Ngày đầu tiên Trung đoàn 64, Sư đoàn 320, Quân đoàn 3 tiến vào giải phóng Sài Gòn là ngày tôi được biết tới một mái trường mang rất nhiều dấu ấn lịch sử của đất nước. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành lập từ năm 1874, với tên gọi ban đầu Collège Chasseloup Laubat. Ngôi trường nằm sát ngay dinh Độc Lập. Cổng chính quay ra đường Hồng Thập Tự và một cổng nữa quay ra đường Trần Quý Cáp nay là đường Võ Văn Tần. Một khuôn viên cổ kính trang nghiêm mà đẹp lạ kì. Những dãy cổ thụ trong sân trường ríu rít tiếng chim, những gốc phượng vĩ gộc gạc còn đang đỏ hoa trên vòm lá.
Quá trưa 30/4/1975 cánh quân của tôi giá súng ngay cổng trường Lê Quý Đôn. Sau gần hai tháng trời chiến đấu liên miên chúng tôi đã đi từ Tây Nguyên tới dinh Độc Lập. Chiến tranh dừng lại đúng vào lúc chúng tôi đến cổng ngôi trường này. Chúng tôi ngước lên, vòm trời thật xanh.

Tác giả Nguyễn Trọng Luân tại cuộc giao lưu giữa những người lính giải phóng và thầy trò trường Lê Quý Đôn ngày 30/4/1975.
(Ảnh của phóng viên chiến trường Kiều Thế)
Đêm ấy thầy trò trường Lê Quý Đôn đã bắt đầu nói chuyện cùng bộ đội.
Những cuộc chuyện trò ban đầu còn chút e ngại, nhưng rồi ấm dần và trở nên hào hứng. Nếu không có lệnh nghỉ, có lẽ chúng tôi sẽ trò chuyện suốt đêm.
Trung đoàn bộ và một số đại đội trực thuộc đóng ngay trong trường. Chúng tôi hạ ba lô và ghép bàn học sinh làm giường. Đêm chiến thắng, ai mà ngủ được.
Sài Gòn điện vẫn lung linh, trai gái vẫn dắt nhau đi dọc đường Trần Quý Cáp. Đêm tinh khôi như chưa hề có chiến tranh. Trong tôi, thành phố yên ả và nghe có tiếng còi tàu từ bến Bạch Đằng vọng lại.
Đêm 30/4 năm ấy hàng ngàn người lính chúng tôi thao thức. Cả Sài Gòn thao thức. Cả Việt Nam thao thức. Tôi nhớ miền Bắc, nhớ mẹ cha nhớ trường Đại học Cơ điện trên Việt Bắc mà tôi tạm biệt đã bốn năm. Tôi mong chóng sáng để ngày mai nhìn thấy Sài Gòn rõ hơn. Ngày mai tôi sẽ viết thư về cho mẹ.
Sáng 1/5/1975. Chưa kịp viết thư tôi đã nhận lệnh mang theo trang bị vũ khí lên gặp ban chính trị trung đoàn nhận nhiệm vụ.
Ban chính trị đóng ở căn phòng hành chánh của trường. Khi tôi lên đã có các thủ trưởng trung đoàn và ba người lạ mặc đồ dân sự. Tôi báo cáo thủ trưởng và chào ba vị khách hai nam một nữ. Chủ nhiệm chính trị trung đoàn nói:
- Đây là các vị giáo chức của trường Lê Quý Đôn. Hôm nay nhà trường tổ chức một cuộc gặp mặt của thầy cô giáo và học sinh nhà trường với chiến sĩ quân giải phóng. Trung đoàn chọn cử ba người gồm Nguyễn Trọng Luân, Lê Hỏa và Phạm Hoài Thủy dự cuộc gặp gỡ.
Tôi quay sang nhìn ba thầy cô giáo. Họ gật đầu tươi cười với tôi. Tôi vui, nhưng cũng hơi hoang mang. Lần đầu tiên đối thoại với những con người của Sài Gòn, biết nói gì đây? Nhưng là người lính, nhận nhiệm vụ là phải thi hành thật tốt. Tôi đứng nghiêm:
- Báo cáo chủ nhiệm, tôi hứa hoàn thành nhiệm vụ!
Hội trường của trường Lê Quý Đôn hôm ấy đơn sơ, chỉ có tấm bảng ghi dòng chữ “Gặp gỡ bộ đội Trường Sơn”. Anh Phạm Hoài Thủy người Hà Nội sinh năm 1940 nguyên là giáo viên văn của cấp 3 Trần Phú ở Vĩnh Yên nhìn tôi bảo:
- Chú mày liệu mà phát biểu với tư cách học sinh miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Nghe thế tôi lại càng hồi hộp.
Lúc đầu khán phòng chỉ chừng ngót trăm người. Dần dần đông lên. Tôi nhìn xuống thấy có cả phóng viên nước ngoài. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy máy quay phim. Các phóng viên quay phim và ghi chép. Các thầy cô giáo và học sinh mặc đẹp lắm, nhất là các cô giáo và nữ sinh trong tà áo dài tha thướt.
Hai anh Lê Hỏa và Phạm Hoài Thủy kể công việc dạy học của mình ở miền Bắc trước ngày đi chiến đấu, kể về nỗi nhớ trường, học sinh... Khi anh Lê Hỏa nói đến câu “Người thầy ở đâu cũng là người đưa đò giống nhau, ở đâu cũng là người làm nghề cao quý” thì một tràng pháo tay ran lên. Không khí ngày càng cởi mở, nhất là mỗi lần anh Phạm Hoài Thủy nói bằng tiếng Pháp thì cả khán phòng ồ lên. Những ánh mắt từ nghi ngại đã chuyển sang yêu quý, ngưỡng mộ.
Đến lượt tôi lên. Một thầy giới thiệu tôi là sinh viên đại học đi bộ đội. Nhiều ánh mắt tò mò nhìn theo tôi. Tôi run như thể học trò lên bảng ngày nào:
- Em thưa các thầy giáo cô giáo, thưa các bạn học sinh…
Cả khán phòng lại ồ lên. Tôi bỗng nhìn thấy hàng ghế đầu các thầy cô giáo đưa khăn lau mắt. Một cô giáo đứng lên hỏi bằng giọng ngạc nhiên:
- Quý anh gọi chúng tôi là thầy cô hả, quý anh?
Tôi trả lời:
- Thưa vâng ạ! Đã bốn năm nay em mới lại được lên bục để chào các thầy cô giáo, em như thấy em đang ở trường học của mình.
Cô giáo môi run run, mắt đỏ hoe, mãi mới nói được:
- Em cho tôi hỏi, suy nghĩ của em về người Sài Gòn ngày hôm nay?
Tôi đáp ngay:
- Thưa cô, em không thấy có gì phải suy nghĩ nhiều vì đây là đồng bào của mình.
Nhìn xuống dưới tôi thấy nhiều người lau nước mắt hơn.
Có lẽ thấy tôi còn trẻ phát biểu tự nhiên nên không khí sôi động hẳn lên. Một bạn nữ sinh đứng lên hỏi bằng một giọng lí lắc, trong veo:
- Nếu một người con gái Sài Gòn yêu quý anh thì quý anh có đồng ý không?
Tôi hơi bất ngờ nhưng đã đáp không chút đắn đo:
- Các bạn Sài Gòn thật là đẹp! Tôi ước gì yêu được một cô gái Sài Gòn!
Tiếng cười và tiếng vỗ tay dào dạt. Tôi thấy mặt mình nóng ran. Tôi thấy các anh Lê Hỏa và Phạm Hoài Thủy cũng cười và vỗ tay.
Một thầy giáo đứng lên giới thiệu:
- Tôi tên là Ngươn. Em cho tôi hỏi, những năm qua sinh viên miền Bắc có biết gì về phong trào “Hát cho dân tôi nghe” của sinh viên Sài Gòn không?
Tôi trả lời:
- Thưa thầy em có biết. Những năm 1971, 1972 các trường đại học miền Bắc luôn theo dõi phong trào của các bạn sinh viên miền Nam. Cũng từ phong trào đó mà ở các trường đại học miền Bắc ai cũng thuộc và hát bài Tiếng hát những đêm không ngủ của nhạc sĩ Phạm Tuyên ca ngợi ủng hộ phong trào “Hát cho dân tôi nghe” đó.
Tiếng vỗ tay lại ào ào. Bao nhiêu nụ cười và ánh mắt yêu mến dành cho tôi. Cả hội trường xôn xao đề nghị tôi hát ca khúc đó. Chủ nhiệm chính trị nhìn tôi khuyến khích. Tôi hơi run, nhưng tự trấn tĩnh. Tự tin lên Luân ơi! Trước khi nhập ngũ mày là cây đơn ca của trường Đại học Cơ điện và vào bộ đội mày là cây văn nghệ của sư đoàn cơ mà. Thế là tôi hát. Tôi hát như ngày nào tôi đã hát ở trường đại học của mình. Lúc ấy tôi như thấy bao đứa bạn tôi trong tốp ca ngày xưa họ cũng đã lên đường đi chiến đấu như tôi. Giữa một sáng Sài Gòn tôi được hát cho các thầy cô giáo và các bạn học sinh miền Nam nghe. Tuổi trẻ ơi, giữ ước mơ độc lập tự do phất cao cờ…
Người kéo tới trường Lê Quý Đôn ngày càng đông. Buổi giao lưu biến thành buổi mít tinh. Tôi không nhớ buổi mít tinh ấy kết thúc lúc nào, chỉ nhớ các thầy và các bạn vây quanh tôi và bao nhiêu lời thăm hỏi ríu rít, bao nhiêu hoa và cờ đỏ trên tay. Các thầy các bạn hỏi quê tôi, hỏi thăm về cha mẹ tôi...
Trung đoàn chỉ được ở lại trong nội đô chừng một tuần nhưng tôi cũng đã kịp viết bài thơ Nước mắt sân trường ghi lại khoảnh khắc quý giá của ngày đầu giải phóng. May mắn hơn, tôi còn giữ được tấm ảnh và bài thơ ngày ấy trong gia tài mang trở về từ chiến trường. Bài thơ mộc mạc ngây thơ mà sao mỗi lần đọc lại tôi thấy lòng xốn xang đến thế.
Đã bốn năm tôi xa mái trường
Bốn năm tôi cầm súng vượt Trường Sơn chiến đấu
Những người học trò mang bài học vào lửa máu
Để sáng nay đứng giữa Sài Gòn
Để sáng nay tôi đứng giữa sân trường
Bên kia đường là dinh Độc Lập
Ngoài cổng trường là nơi chiến tranh dừng lại
Tôi gặp thầy cô giữa mùa phượng rưng rưng
Tôi lại nhìn lên tấm bảng đen
Nét phấn của thầy nghiêng về phía trước
Tiếng chim lảnh lót
Sáng tháng năm này thành phố những cờ hoa…
Đã năm mươi năm rồi, cứ mỗi khi ngày 30/4 về tôi lại nhớ về trường Lê Quý Đôn. Càng về già tôi càng hiểu và khâm phục sự tinh tế nhạy cảm của thầy trò trường Lê Quý Đôn. Có lẽ đây là ngôi trường duy nhất, sớm nhất tổ chức cho thầy trò giao lưu với bộ đội giải phóng, một việc không ai ra lệnh.
Nhiều năm qua mỗi khi có dịp đi công tác thành phố Hồ Chí Minh tôi đều đi bộ đến đây nhìn vào mái trường với niềm yêu dấu. Tôi nhớ những gốc cây cổ thụ trong trường rì rào gió, tôi nhớ thầy giáo Ngươn, cô giáo Liễu…, nhớ các bác lao công ở trong trường khi chúng tôi tiến vào đóng quân đã từng giúp đỡ chúng tôi. Cám ơn lịch sử cho tôi được có một ngày sướng vui đến vậy!
N.T.L
VNQD