. VŨ CÔNG CHIẾN
Khi ấy là vào gần cuối mùa mưa năm 1972 ở Nam Lào. Đại đội tôi được nhận nhiệm vụ vượt sang đường 23, luồn sâu vào sau lưng địch để tổ chức những trận đánh nhỏ lẻ và chốt giữ địa bàn cho trung đoàn. Sau vài trận đánh tập kích và phục kích những tốp địch hành quân dã ngoại, tiểu đội chúng tôi được giao một nhiệm vụ lẻ đặc biệt. Đó là tìm đường lên phù Khống Phạ cách đó chừng năm chục cây số rồi đi dọc theo đỉnh dãy núi trinh sát tìm xem có trạm thông tin bí mật của địch không. Cấp trên nghi ngờ trên đó có một đài thông tin bí mật của địch để liên lạc với các đơn vị thám báo hoạt động ở Tây Trường Sơn. Có thể trạm thông tin này được tiếp tế hậu cần bằng máy bay trực thăng, nên không có đường lên đó. Chúng tôi sẽ phải xác định có trạm thông tin đó của địch hay không, nếu có thì chấm tọa độ rồi về báo cáo. Tiểu đội có ba người do Tiểu đội trưởng Nhạn chỉ huy, thêm tôi và cậu Tháo, được bổ sung thêm cậu Hoài ở tiểu đội bạn.
Ngày đầu chỉ là đường bằng với những cánh rừng có nhiều dây leo chằng chịt. Chúng tôi tập trung cho nhiệm vụ chính được giao, nên không ngó nghé gì chuyện khác. Một đêm yên tĩnh không phải gác bên một con suối nhỏ trôi qua. Hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường.

Tinh thần luôn lạc quan của cán bộ, chiến sĩ trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế. Ảnh: Đoàn Công Tính
Buổi sáng hôm ấy trời đẹp. Gần trưa, cả tiểu đội đã đi gần như hết những cánh rừng bằng và tiến tới chân núi. Bỗng trước mặt hiện ra một bãi cỏ rộng, toàn cây nhỏ lúp xúp mọc thưa xen lẫn những bụi cây sa nhân trông như dong rừng. Có một nhánh suối đá chảy ven chân núi. Lúc này trời hửng nắng, có những ánh nắng vàng nhè nhẹ trải trên bãi cỏ. Đâu đó trong bãi cỏ có lẫn một vạt hoa, những bông hoa nhỏ chỉ bằng đầu ngón tay cánh mỏng tang mang sắc vàng sắc tím thường gọi là hoa đồng nội. Ở cạnh những cánh rừng già, ven suối hay có những bãi cỏ rộng có hoa đồng nội như thế này. Thứ hoa đồng nội thật đặc biệt, ngắt ra đơn lẻ một mình thì mỏng manh yếu ớt và không tạo nên vẻ đẹp, nhưng khi đứng cùng nhau thành một thảm hoa thì không gì đẹp bằng. Những luống hoa trồng trong vườn ở làng hoa đến kì nở rộ có đẹp rực rỡ đến mấy cũng không thể tạo nên được vẻ đẹp xao xuyến lòng người như hoa đồng nội. Nó đẹp một cách tự nhiên, bình dị, nhẹ nhàng và gần gũi như vẻ đẹp của những cô thôn nữ gặt lúa ngày mùa.
Tiểu đội trưởng Nhạn ngửa cổ nhìn trời rồi bảo, ta dừng lại nghỉ trưa ở đây thôi. Mọi người cùng hối hả bước đến phía con suối để hạ ba lô nghỉ trưa. Đang phăm phăm bước trước, bỗng Nhạn nhảy bật lùi một bước. Tôi đi sát sau vội tuột khẩu AK khỏi vai định nhào tới nhưng Nhạn gạt tay ra sau:
“Dừng lại, rắn đấy”.
Tôi nghiêng người nhìn ra phía trước, thấy sởn gai ốc. Một con rắn hổ mang to tướng nằm chắn ngang trước mặt chỉ cách độ ba mét. Nó đang ngóc cái đầu đưa qua đưa lại phồng mang phun phì phì, cái lưỡi thụt ra thụt vào loang loáng. Cả người và rắn cùng đang thủ thế. Chưa ai biết nên làm gì thì nhanh như sóc, cậu Tháo tụt ba lô và tay không lao về phía con rắn như một tia chớp. Khi mọi người vừa kịp hiểu ra thì đã thấy Tháo đang nắm chặt đuôi con rắn quay tít trên đầu. Tháo quay nhanh và mạnh đến nỗi con rắn cứ thẳng đờ thân ra, không vòng đầu lại được. Khá lâu sau, có lẽ phải quay được đến vài chục vòng, Tháo dùng tay kia tuốt mạnh từ đuôi lên đầu con rắn. Con rắn dài quá sải tay nên Tháo phải cuộn cái tay cầm đuôi quấn tiếp mấy vòng nữa thì tay kia mới vuốt được đến cổ nó. Mọi người nghe rõ tiếng rạn xương của con rắn như kiểu người ta vặn lưng. Khi Tháo thả tay ra vất con rắn xuống đất, nó nằm im không còn ngọ nguậy được.
Cả bọn ngây ra như nhìn Tháo làm xiếc. Bây giờ xong rồi nhìn lại con rắn mới thấy ghê vì nó to quá: dài hơn hai mét, to gần bằng cổ chân, cái thân đen mốc thô ráp. Con rắn không cử động được nhưng chưa chết, vô ý mà đưa tay chân tới gần miệng nó đợp cho một phát là toi, nên Tháo rút dao găm chặt phăng cái đầu cho an toàn.
Đằng nào cũng nghỉ trưa, Tiểu đội trưởng Nhạn bảo Tháo:
“Cậu bắt rắn như làm xiếc thế chắc biết cách làm rắn. Làm thế nào, cậu phân công mọi người đi, xúm vào mỗi người một chân một tay cho nhanh”.
“Vâng. Bây giờ mình sẽ làm thế này là đơn giản nhất kiểu dân dã: Anh Nhạn và cậu Chiến đi kiếm lá chuối cả khô và tươi rồi lau sạch. Phải một ôm mới đủ đấy. Thêm cả một ít bẹ chuối nữa. Đào thêm một củ chuối rừng to và đẽo thành một cái chày như chày giã cua ấy đem về đây. Hoài đi kiếm cho tôi củi khô để nướng thịt rắn. Còn tôi sẽ đi tìm cối đá để giã”.
Hai chục phút sau, mọi người đã kiếm đủ thứ Tháo cần. Tháo rải lá chuối khô ra, nhờ mọi người trợ lực treo con rắn lên một cành cây rồi lột da, bỏ ruột. Đoạn, Tháo rải lá chuối kê gỗ dùng dao chặt thành từng khúc rồi vằm nhỏ. Vừa làm Tháo vừa giải thích, khi làm thịt rắn không được rửa bằng nước lã mà phải chế biến trực tiếp mới khỏi bị đi té re. Sau đó Tháo bỏ các khúc thịt vào một cái “cối đá” mà nó tìm được bên suối, đó là một cái vệt hõm trên đá được lau sạch. Tháo giã một lúc lâu thì Nhạn tiếp tay giã thay. Tới khi thấy xương rắn cắm hết vào cái chày củ chuối, Tháo bảo, được rồi đấy, đoạn cho vào đó một ít muối rồi trộn đều lên. Trong lúc đó thì Hoài và tôi đào một cái hố nhỏ rồi châm lửa đốt đám củi to lấy than.
Lúc này Tháo mới bốc thịt rắn vo thành từng viên bằng mấy ngón tay quấn lá chuối bọc vào đến mấy lớp, lại lấy bẹ chuối ốp bên ngoài kiểu mo cơm. Lửa cũng đã cháy to rừng rực, Tháo nhấc mấy thanh củi đang cháy, gạt tro nóng và than hồng cho bằng rồi xếp mấy bẹ chuối gói thịt rắn xuống, cuối cùng lại phủ lên một lớp tro dày và xếp thêm củi đốt cháy bên trên. Tháo bảo kiểu này gọi là nướng hạ thổ.
Hơn hai chục phút sau, Tháo khều các bẹ chuối đã cháy đen lên gỡ thịt rắn. Món thịt rắn nướng ăn với cơm nắm ngon tuyệt. Vừa ăn Tháo vừa kể chuyện về rắn.
“Ở Hà Nội cũng không xa nhà tôi có một làng nổi tiếng về nuôi, bắt cũng như làm các món thịt rắn. Đó là làng Lệ Mật ở huyện Gia Lâm. Một con rắn họ làm ra nhiều món lạ lắm, ví dụ như có mỗi bộ da rắn mà cũng thành món rang muối ăn giòn giòn. Nhưng nói chung dân tình ít ai cầu kì như thế mà thường làm một món truyền thống nhưng rất ngon. Đó là lấy thịt rắn như mình giã vừa rồi, nhưng cho vào các loại gia vị gồm hạt tiêu, mì chính, hành khô xắt nhỏ, thêm tí muối, tí đường, tí ớt bột, vắt thêm chút nước củ riềng. Trộn đều tất cả cho ngấm rồi nắm lại thành viên, thả vào chảo mỡ sôi mà rán tới khi vàng cạnh là xong. Đủ mọi thứ gia vị như thế thì ăn món chả rắn xong chẳng muốn chén thêm gì nữa. Có khi thiếu một chút gia vị trong đó cũng chẳng sao, cần nhất là muối thôi”.
Ngừng một lát, Tháo tiếp:
“Hôm nay mình chẳng có mỡ rán, nhưng nướng hạ thổ thế này cũng ngon chứ các cậu nhỉ”.
Đúng là ngon thật, cả bọn ăn và gật gù khen ngon. Tôi bỗng thắc mắc:
“Này, sao món rắn nướng này ăn không thấy có chút tanh nào nhỉ, vì mình có gia vị hay mỡ rán mà át đi đâu. Tôi thấy thường những con sống ở nước hay bò trên mặt đất có những mùi tanh riêng”.
Nghe tôi thắc mắc, Tháo cười to và bảo:
“Khá khen cho đồng đội có một phát hiện rất hay. Nhưng cậu có biết vì sao món rắn nướng này dù không đủ độ thơm thì cũng không bị tanh không?” - Tháo hỏi rồi lại tự trả lời luôn. - “Đó là nhờ giã bằng củ chuối đấy. Chày bằng củ chuối không những thu hết xương rắn dính vào đó mà còn thêm tác dụng là nhựa chuối đã khử mùi tanh của thịt rắn. Điều này ít người để ý mà dân làm rắn họ cũng chẳng buồn nói ra. Chẳng phải bí kíp gì nhưng cũng là một cái mẹo nhà nghề”.
“Thế nếu không có củ chuối để giã thì sao?” - Tôi lại hỏi.
“Chỗ nào mà chẳng có củ chuối. Ở quê thì ra vườn, còn ở rừng thì ra ven suối tìm chuối rừng. Rừng nhiệt đới có mà thiếu giống”.
Tháo còn kể thêm một câu chuyện ăn thịt rắn cầu kì của một ông người Hoa ở phố cổ Hà Nội.
“Ông ấy kiếm một con rắn hổ to đem nuôi ít ngày trước khi làm thịt. Thoạt đầu ông ta kiếm một con ếch to, cho nó ngậm một củ sâm, khâu mồm nó lại và thả trong cái vại nhỏ. Mấy ngày liền con ếch không được ăn gì thêm nhưng chất trong củ sâm cứ ngấm vào người nên nó vẫn sống và béo trắng ra. Căn đến ngày củ sâm vừa tiêu hết, ông ấy thả con ếch đó vào chỗ con rắn đói và đương nhiên con ếch thành miếng mồi ngon của con rắn hổ. Đợi đủ thời gian cho con ếch tiêu hết thì ông ta mới đem con rắn đi làm thịt. Vậy là mấy lần bổ chồng lên nhau. Không biết cái bổ kép ấy ngấm được vào người bao nhiêu, nhưng quả thật khó ai có thể làm theo được cầu kì như thế”.
Hoài cũng vừa ăn vừa hỏi Tháo:
“Hồi ở nhà mày làm gì mà sao bắt rắn thiện nghệ thế. Không sợ rắn nó cắn à? Hay mày có bài thuốc trị rắn cắn”.
“Tôi làm nghề chẳng liên quan gì đến rắn cả. Ngày ở nhà chỉ theo bố đi đóng cối xay lúa rồi sau đó nuôi lợn đực giong đi cho lấy giống quanh huyện thôi. Nhưng hồi học cấp ba ở Yên Viên có thằng bạn nhà ở làng Lệ Mật, nhà nó có nghề bắt rắn. Nghe nói đồng đất bên xã tôi hay có rắn ở ngoài bãi chân đê, nó mấy lần mò sang bắt rồi cùng làm thịt ăn. Chính nó dạy tôi cách bắt rắn bò trên mặt đất. Quan trọng nhất khi chộp đuôi rắn là phải thật nhanh, đúng hướng và chính xác. Tôi chỉ học được thế thôi, còn bắt rắn hổ trong hang thì phải có gậy ba chạc, khó hơn nhiều. Dân bắt rắn Lệ Mật họ cũng có bài thuốc chữa rắn cắn gia truyền, nhưng chỉ cứu người chứ không truyền cho ai. Nhưng nếu không may bị rắn cắn thì phải ga-rô thật nhanh và nặn bóp ngay máu ở vết cắn. Chỉ có mỗi cách đó là tốt nhất. Chậm là đành chịu”.
Hôm ấy, cả tiểu đội chúng tôi có một bữa ca cóng đặc biệt. Tiểu đội trưởng Nhạn còn cho chúng tôi nghỉ lại tới tận giữa chiều mới lên đường, đi thêm một chặng ngắn nữa là kết thúc ngày đi.
Đó là lần đầu tiên tôi được ăn thịt rắn giữa rừng. Sau này khi ra quân về đời thường tôi còn được ăn thịt rắn mấy lần nữa nhưng có lẽ chỉ có lần ca cóng ấy là ngon nhất.
V.C.C
VNQD