. NGUYỄN BẢO
Đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng tôi tình nguyện vào chiến trường miền Nam. Từ đầu tuyến lửa Quảng Bình, chúng tôi rẽ theo các ngả đường khác nhau về các mặt trận. Đoàn đi Nam Bộ, đoàn đến Bình Trị Thiên, đoàn vào Khu 6... Đoàn chúng tôi sau hơn một tháng trèo đèo lội suối, hứng khá nhiều trận bom pháo dọc đường Trường Sơn đã có mặt gần như đầy đủ ở Ban Tuyên huấn khu ủy Khu 5. Lúc này đại bản doanh của khu ủy đóng trên đất Quảng Nam. Ở đây chưa đầy tháng, tôi, Nguyễn Hồng và Vũ Thị Hồng lại tình nguyện chuyển qua quân đội.

Nhà văn Nguyễn Bảo (thứ 3 từ phải sang) cùng đồng đội ngày 30/4/1975 ở Sài Gòn
Nhớ mãi hôm đó, trời mưa sụt sùi, chúng tôi khoác ba lô theo chân những người đi gùi gạo về đơn vị mới của mình: Ban Văn học Cục Chính trị Quân khu. Đi được nửa buổi đường, chúng tôi dừng lại. Giữa muôn trùng cây lá, thấp thoáng những mái nhà lá đơn sơ. Được biết, đây là doanh trại Cục Chính trị quân khu. Vào đó mới hay Ban Văn học không có ai ở nhà. Một số người đi với các đơn vị bộ đội, một số khác đi vỡ đất, trồng ngô, trồng sắn. Nơi ở của ban chỉ còn trơ cái nền đất trống. Lâu ngày không ai trông coi, lợn thả rông được phen tung hoành, rồi mưa nắng dãi dầu đã làm ngôi nhà đổ sụp. Ba anh em đành xin ở tạm nhà Ban Dân vận cạnh đó. Những ngày chờ đợi, bàn nhau chặt gỗ, cắt lá làm nhà. Hồi còn là sinh viên sơ tán trên rừng, chúng tôi từng làm nhà kiểu này. Khoảng hai mươi ngày sau, các anh trong ban lục tục kéo về, cũng là lúc ngôi nhà đang được hoàn thiện. Anh Nguyễn Chí Trung - Phó ban và là Bí thư chi bộ đi lấy tài liệu ở một khu đồn, về đầu tiên. Ít ngày sau chúng tôi chính thức là người lính. Đời quân ngũ mà chúng tôi theo suốt đời mình bắt đầu là như vậy đấy.
*
* *
Từ Nước Oa, đội quân văn học nghệ thuật tỏa về các miền đất khác nhau, bám dân, bám các đơn vị. Là lính, mới nho nhe viết văn, làm báo các anh trong ban muốn sớm đưa chúng tôi vào cuộc, thử thách. Biết vậy chúng tôi thầm hứa vượt qua những bỡ ngỡ ban đầu. Trước tiên vẫn là làm quen với việc đi gùi gạo trên các bản dân tộc miền núi Quảng Nam, cả đi lẫn về có khi hai, ba ngày liền. Lần đó tôi đi gùi gạo với anh Vũ Phong Tạo. Anh Tạo về ban trước chúng tôi và là dịch giả văn học Trung Quốc. Lúc về tôi và anh vướng phải bẫy chông của đồng bào chống địch càn, máu chảy lai láng phải nằm lại một ngày một đêm ở bản nhờ dân đắp thuốc. Tiếp theo là làm quen với việc làm rẫy trồng sắn, trồng bắp. Nhưng có lẽ khác hơn so với bạn bè ở khu ủy, tôi, Hồng nam, Hồng nữ sớm được đưa về các đơn vị chiến đấu.
Chuyến đi thực tế đầu tiên của ba chúng tôi là về các mặt trận nóng bỏng nhất, tự lo liệu đường đi nước bước, tự xoay xở các tình huống gay cấn vẫn thường xảy ra nơi bom đạn ác liệt. Xuống đơn vị, theo truyền thống của ban, mỗi người phải bám tiểu đoàn hoặc đại đội. Trận đầu, Vũ Thị Hồng đi với một tiểu đoàn của Sư 2 đánh địch ở Hòn Chiêng, Quảng Nam rồi cầm AK cùng bộ đội rượt đuổi địch. Đến lần theo bộ đội Sư 2 đánh địch ở Cấm Dơi, Quế Sơn, đang loay hoay tìm đường ra khỏi trận địa thì máy bay B-52 ào đến, Hồng bị bom xô xuống một rãnh ruộng lõm bõm nước. Dứt trận bom, mọi người chạy đến, kéo cô từ đất bùn lên, vai phải của cô đầm đìa máu. Nhờ những chuyến đi như vậy, ngay ở chiến trường Hồng viết báo, viết văn thành công khá sớm. Nhiều vốn liếng sau này cô viết tiểu thuyết, truyện kí. Gần đây tập truyện kí Chạm vào kí ức của cô đã dựng lại một phần những trận đánh, những chuyến hành quân gian khổ vất vả của một phụ nữ cầm bút cầm súng cùng bộ đội ra trận.
Còn Nguyễn Hồng theo một mũi chủ chốt của đại đội đặc công, cởi trần bôi lọ nghẹ bò vào tận đồn địch ở Bình Định. Trận đánh không thành, Hồng về ban, buồn, không viết được. Chúng tôi khuyên Hồng bình tĩnh và đừng nôn nóng, đừng xông xáo quá sức. Nhưng lần sau đó theo một đơn vị chặn địch ở ngã ba Cây Rui, Bình Định, Hồng còn nhập trận quyết liệt hơn. Nhiều người trong ban cảm thấy ái ngại. Cứ đà này Hồng khó qua hết cuộc chiến tranh.
Về gia cảnh, Nguyễn Hồng sinh ở Nghệ Tĩnh. Gia đình nghèo, bố mất sớm, mẹ già yếu. Chị bị mù từ bé. Hồi Hồng vào chiến trường còn có một em trai, đang học phổ thông trung học. Trong lớp văn trường Đại học Tổng hợp hồi ấy, Hồng là người học giỏi, sôi nổi, tham gia nhiều việc của lớp, của khoa. Những năm đó, cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước đang vào giai đoạn khẩn trương. Gian khổ ác liệt đấy nhưng thắng lợi cũng cận kề. Không đợt tuyển quân nào ở trường vắng mặt Hồng.
Đến gần cuối năm 1973, tôi và Nguyễn Hồng được phân đi cùng một chiến trường: Quảng Nam, Quảng Đà. Nguyễn Hồng đi Điện Bàn, tôi đi Hòa Vang. Trước khi đi, Hồng có bút kí “rất bảnh” Đêm cao điểm. Dám “chịu chơi” với gian khổ khốc liệt, lăn xả vào cuộc, gắn bó hết mình với bộ đội, bút kí ngồn ngộn những tư liêu sống động về người lính, về kẻ thù, về những gì diễn ra trong một trận đánh cam go, sinh tử. Hồng cặm cụi viết, quên ngày quên đêm. Bài viết được mọi người trong ban khen ngợi, anh cũng được tin tưởng, quý trọng. Qua đó đã nhìn thấy rõ một ngòi bút năng lực, hứa hẹn. Sáng tác này được in ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, sau đó được đăng trên Văn nghệ Quân đội và được tặng thưởng văn xuôi xuất sắc trong năm. Đêm cao điểm còn được in tuyển ở rất nhiều tập sách của các nhà xuất bản. Nhưng Hồng đã không kịp hay biết gì ngoài cái bản thảo được kì cạch đánh máy cập rập gửi ban biên tập trước đó.
Nhớ lại trước khi đi chiến dịch, Hồng được kết nạp Đảng. Vào chiến trường, chúng tôi mới chỉ là những đoàn viên, chỉ vài năm đầu ở ban chúng tôi đã lần lượt được đứng trong đội ngũ của Đảng và được đề bạt đại đội bậc phó (tương đương quân hàm thiếu úy). Về cuộc chiến đấu và hi sinh anh dũng của Nguyễn Hồng ở Điện Xuân, Điện Bàn năm 1973, cán bộ, chiến sĩ kể lại rằng: Đại đội đối mặt với một tiểu đoàn địch. Để bảo toàn lực lượng, chỉ huy đại đội lệnh cho đơn vị rút về sau. Hồng nói: “Tôi sẽ ở lại. Bọn địch muốn chiếm mảnh đất này phải bước qua xác tôi”. Hồng đã giữ y lời hứa, bằng một khẩu AK anh đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tuổi thanh xuân của anh đã ngã xuống trước bình minh của cuộc chiến. Thiết nghĩ một người cầm bút cầm súng chiến đấu như Hồng mà không được Đảng, Nhà nước phong Anh hùng là điều đáng tiếc. Sau ngày miền Nam được giải phóng, một số đồng nghiệp đã cùng chính quyền địa phương xây một khu tưởng niệm nơi Hồng hi sinh, chưa thật hoành tráng nhưng có một dáng dấp riêng: Dáng dấp của một người cầm bút, cầm súng ra trận.

Nhà văn Nguyễn Bảo cùng đồng đội thăm lại chiến trường xưa
Về Hồng là thế, còn tôi, tôi đi với Tiểu đoàn 91 đặc công đóng trên đất Quảng Đà. Đây là trận đầu tôi được tham dự. Những gì tôi hằng tưởng về một trận đánh của đặc công đã không xảy ra. Mục tiêu của chúng tôi là đồn Bình Long, Điện Bàn. Hôm đó tiểu đoàn hành quân suốt đêm. Gần sáng, các đại đội dừng lại ở một bãi bồi gần sông Thu Bồn. Theo phương án, sập tối, tiểu đoàn sẽ vượt sông chiếm lĩnh trận địa, tiêu diệt một tiểu đoàn bảo an của địch. Chẳng hiểu sao, mới tảng sáng, hai chiếc UH-1A đã quần thảo tơi bời trên bầu trời chúng tôi trú quân. Không có lệnh bắn máy bay, cán bộ, chiến sĩ đành nín nhịn, chịu đựng. Được thể, hai chiếc máy bay càng làm già, chúi thấp, bắn đại liên, ném lựu đạn. Nhiều căn hầm bị đạn cày trốc lốc. Bộ đội thương vong la liệt. Hầm của Chính trị viên Tiểu đoàn Thiềng trúng một quả rốc két. Anh hi sinh ngay tại chỗ. Tiểu đoàn trưởng, tham mưu trưởng cũng bị lựu đạn quăng xuống cạnh hầm suýt chết. Tiểu đoàn phó lạc một ngày sau mới tìm về được đơn vị. Thoạt đầu, tôi chung hầm với cán bộ đại đội. Khi máy bay làm nghiêng ngả đất trời, các anh đi đến với các trung đội, chỉ còn tôi và cậu liên lạc. Nhưng chẳng mấy chốc căn hầm đã đầy ự tử sĩ và thương binh. Tôi đành nhường hầm cho họ.
Gần như không thể thoát khỏi cái chết, tôi bò tìm một chỗ trũng, rùm ròa cây bói, cầm súng ngắn và chuẩn bị rút chốt lựu đạn. Bộ binh địch từ đâu đó đã ập đến gần lắm. Chúng đang chỉ trỏ và cười hỉ hả. Mỗi lần đi chiến dịch các anh phụ trách thường dặn chúng tôi: “Nếu lâm vào tình thế bất khả kháng thì nên tự sát để không bị địch bắt sống”. Lúc này, tôi nhớ lời dặn ấy và đã sẵn sàng. Lạ lùng, thấy mình tự tin và thật bình tĩnh trước cái chết. Ngay lúc đó, Chính trị viên đại đội Miêng túm áo tôi kéo dậy. Tôi hiểu là hãy đi theo anh. Chúng tôi chạy bán sống bán chết lên phía bờ sông Thu Bồn. Chân trời phía trước hàng chục chiếc trực thăng chở quân của địch vẫn đang sầm sập lao tới. Nhiều chiếc đã hạ xuống các bãi trống. Cát, cỏ cây bay lông lốc, mờ mịt, tơi tả. Đạn AR-15 cùng với những lời chửi rủa đe dọa của đám lính chui từ máy bay ra ngậu xị. Người yếu bóng vía thấy thế, nghe thế đủ ngất. Tất nhiên, vài tuần sau đó, tiểu đoàn được củng cố, tiếp tục đánh và đã tiêu diệt gọn đồn Bình Long.
Một trận đánh khác tôi không nhớ là trận thứ bao nhiêu được tham gia. Trận tiêu diệt một tiểu đoàn pháo binh địch đóng trên suối Đá thuộc xã Tam Đa, Phú Ninh. Tôi với Quang, cán bộ nhiếp ảnh của Cục Chính trị Quân khu cùng đi. Trước đó, trình bày phương án tác chiến trên sa bàn, Tư lệnh Quân khu 5 Chu Huy Mân tới dự. Ông đồng ý với cách đánh của tiểu đoàn, chỉ dặn một điều: “Với địa hình này, địch sẽ gài rất nhiều mìn xung quanh. Phải có giải pháp để bộ đội không vướng mìn”. Nho - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 vừa lên thay tiểu đoàn trưởng hi sinh trong trận trước, chỉ dám hứa sẽ cho dò gỡ mìn trên đường tiếp cận. Vì cả một quả đồi mênh mông không thể nào kiểm soát xuể.
Vào trận, tôi và Quang định đi theo Đại đội 5 nhưng bị ách lại. Chúng tôi đành mon men đi theo chỉ huy tiểu đoàn. Hầm chỉ huy gần địch lắm. Nghe rõ chúng chửi rủa tục tằn, thách: “Đố những tên khát máu Việt Cộng dám dẫn xác vào đây đấy. Chúng mày còn muốn sống hãy rút ngay, bằng không hãy cầu Chúa đi, chúng tao nhìn thấy hết rồi đấy…” Chúng lu loa rùm beng và bắn súng dọa nạt. Nho nói thầm: “Khéo mà tụi nó biết mình đang ở gần”. Anh hất hàm về phía tôi và Quang đang hí hoáy đào hầm rồi ra hiệu cho cậu liên lạc. Ngay sau đó cậu liên lạc đến mời chúng tôi về sau. Tôi và Quang không còn cách nào khác, lặng lẽ lùi xa. Tội nghiệp, bậm môi, bậm lợi xốc xới trên đất rắn, chiếc hầm còn nông choèn chưa đủ rúc cái đầu thì pháo đã nã tới tấp. Mà lạ kì, địch như nhìn thấy rõ tôi và Quang, cứ nhằm vào cái hầm tí tẹo mà phóng đạn. Tôi thấy mặt Quang xanh tái dưới ánh pháo sáng. Quang khỏe và đào hầm rõ nhanh. Tôi ngồi bên ngoài chuyển từng mũ đất lên bờ. Cứ mỗi quả pháo làm tung đất đá rào rào và mảnh bay vù vù, tung tóe, Quang lại ngẩng lên hỏi tôi: “Bị gì chưa?”. Đúng là tôi chưa bị gì và còn nghĩ thầm: “Chết thì thôi, mắc gì phải sợ, giải quyết được gì đâu”. Nhưng rồi cả tôi cả Quang chẳng can cớ gì. Các quả pháo như ngán ngẩm, cứ nhích xa dần.
Khi bộ đội tràn lên suối Đá làm chủ trận địa, chúng tôi vội xách gùi lên chỗ chỉ huy. Trời ạ! Chỗ tôi và Quang đang khoét hầm dở là cái hố to đùng của một quả pháo. Sát hầm chỉ huy tiểu đoàn, cũng có ba bốn cái hố như thế. Căng thẳng tới mức trông các anh già xọm, xơ xác. Nho bị mảnh vào chân, nhúc nhắc chống gậy lết từng bước. Ấy thế mà lúc đó Quang cứ đòi chạy vào đồn chụp ảnh. Tôi hơi băn khoăn, vì chợt nhớ lời dặn của Tư lệnh Chu Huy Mân hôm dự phương án tác chiến của tiểu đoàn. Quang cũng biết vậy nhưng quả quyết: “Thắng thế này mà không vào chụp lấy vài pô, về nhà các ông thủ trường cơ quan “ghè” đủ chết”.
Vâng! Có một thời làm phóng viên của chúng tôi là thế. Ai bảo ít nguy hiểm hơn những người lính chiến. Lính chiến khi xông trận đã được trang bị nghiệp vụ. Còn chúng tôi lúc này biết lối nào mà tránh mìn, tránh cái chết vô hình đây. Chẳng nỡ để Quang lên đó một mình tôi đành theo Quang. Chạy giữa những đám cỏ xanh rì mà chân cứ nhờn nhợn thế nào. Ở trận địa quân ta vừa làm chủ, tiếng nổ vẫn còn bùng lên đây đó và tiếng máy bay ù ì xa xa đang mỗi lúc gần hơn, chuẩn bị quăng bom hủy diệt. Quanh chúng tôi nhiều xác địch và cả những tên bị thương chưa kịp chuyển đi, rên rẩm cầu cứu. Cạnh đó là khẩu pháo 105mm tự hành còn nguyên xi, nòng đang ngún khói… Quang đã chụp được những bức ảnh như ý.
Sau năm 1975, Quang và tôi trở lại suối Đá. Nơi đây chỉ còn là rừng cây xanh um, chân đồi là những bãi ngô bãi sắn tươi tốt. Tôi không còn nhận ra chỗ nào với chỗ nào, nhưng Quang thì nhớ như in những gì hai đứa đã chịu đựng, đã vượt qua.
*
* *
Nhớ lại, từ những ngày đầu về Ban Văn học Cục Chính trị Quân khu 5, qua từng trận đánh, những dạn dày trận mạc, số trang viết của tôi cứ thế dày lên mãi. Lần trở lại Đà Nẵng năm vừa rồi, nghe kể về một số trận đánh ở Tiểu đoàn Đặc công nước 471 và Đại đội công binh Hải Vân anh hùng, Nguyễn Bá Thâm - bạn học cũ cùng vào chiến trường một chuyến với tôi trên chiếc Honda đã đưa tôi trở lại những vùng đất đó.
Anh đưa tôi đi dọc sông Trường Định. Trước năm 1975, Tiểu đoàn Đặc công nước 471 đứng chân gần con sông này. Tôi ở với Tiểu đoàn 471 hàng tháng trời. Kì lạ, một tiểu đoàn chứ ít gì đâu đứng chân trong thành phố xung quanh là địch vậy mà không chỉ tồn tại còn liên tục phá cầu, tiêu diệt tàu trên biển, đánh phá nhiều khu vực đóng quân kho tàng, trang thiết bị chiến tranh của địch.
Anh hùng Đặng Tiến Lợi của tiểu đoàn từng đột nhập khu Radar của Mĩ - ngụy trên đỉnh Sơn Trà phá tanh bành trang thiết bị máy móc, làm hệ thống thông tin ở đây tê liệt hoàn toàn. Nhiều tàu chiến lớn của Mĩ bị tiểu đoàn đánh chìm ngâm xác ở biển Quảng Nam cho đến tận bây giờ. Và thường những người tham dự đánh tàu hoặc đánh cầu không mấy ai trở về. Cùng đi với họ là những khối thuốc nổ. Khi họ đến với mục tiêu thì không còn đồng đội, không còn người chỉ huy. Chỉ còn họ và bộc phá bên cạnh.
Lần đó, tôi được chứng kiến trận đánh cầu Thủy Tú của tiểu đoàn. Cầu nằm ở cửa sông Trường Định. Trực tiếp vào trận chỉ năm người. Hai người đảm nhận đánh sập cầu sắt chạy xe lửa. Hai người nữa đánh vào cầu bên cạnh dành cho ô tô và các phương tiện khác. Còn một người đi theo cắt rào. Hai cây cầu nằm song song. Đội quân phục vụ cho năm con người kể trên rất đông. Gồm chỉ huy tiểu đoàn, chỉ huy đội, phân đội, các bộ phận khác. Tôi đi với đội hình này. Chúng tôi tập kết ở một mỏm đồi gần cầu, khá cao, nhìn thấy rõ mục tiêu. Thời khắc mà bộc phá của năm chiến sĩ quả cảm phát nổ là vào khoảng nửa đêm. Nhưng chưa đến cái giờ ấy thì cả chiếc cầu rực sáng. Các loại đèn trên cầu, trên sông, trên biển, trên trời biến ban đêm thành ban ngày. Chúng tôi đứng hết dậy hướng về cầu, nín thở. Súng đạn địch rầm trời như cả một kho đạn bị kích hoạt. Riêng hai khối bộc phá cùng năm chiến sĩ của tiểu đoàn thì im lìm, bặt vô âm tín từ đó đến giờ. Cảm giác tiếc nuối, đau xót, bàng hoàng ngập tràn con sông Trường Định và một vùng biển thẳm.
Sau trận đánh bất thành ở cửa sông Trường Định, tôi rời tiểu đoàn đến với Đại đội Hải Vân anh hùng. Phía bên kia đèo là đất Trị Thiên. Ở đó cũng có một Đại đội Hải Vân anh hùng. Sau này, một người bạn của tôi, anh Nguyễn Ngọc Đạt từng chiến đấu dũng mãnh bên kia đèo kể lại nhiều trận đánh rất tuyệt vời. Đi với Đại đội Hải Vân mấy tháng trời, tôi thấm thía những khó khăn gian khổ họ từng chịu đựng. Đại đội xa dân, xa tỉnh đội, luôn thiếu gạo ăn, luôn phải chịu rét mướt. Khí hậu đường đèo vô cùng khắc nghiệt. Quần áo ẩm xì, sương mù dày đặc bao phủ quanh năm. Các bệnh ngoài da tràn lan khiến cán bộ, chiến sĩ ngứa ngáy sột soạt suốt ngày đêm…
Thời gian cũng đã chìm sâu vào dĩ vãng, nhưng anh Nguyễn Bá Thâm quyết đưa tôi trở lại những kí ức một thời. Chiếc Honda của anh thật kiên cường. Đèo Hải Vân dốc thế nhưng xe cứ hừ hự thốc lên. Chúng tôi dừng lại chỗ cống nước gần đồn nhất, đồn nhì của địch trước đây, bên trên có những hộc đá lớn. Tôi đã cùng bộ đội trú ở đó chờ mờ sáng đồng loạt phóng đạn B40, B41 vào xe chở lính, chở trang bị vũ khí, lương thực của địch. Để đến được đây, khi đó chúng tôi phải vượt không biết bao dốc, bao suối, lại phải bí mật để địch ở trên đèo không phát hiện được. Tôi với Đại cùng đào chung hầm. Đại là phái viên quân sự của tỉnh đội, tuổi ngấp nghé như tôi. Mà cái tên anh sao mà xứng với con người anh thế, trông cứ như một con gấu lớn. Anh nặng dễ trên bảy mươi kí. Lính ta rất ngán vào trận với những người “khủng” này. Bởi lẽ không may phải khiêng cáng thì “ốm đòn”. Ấy, không biết có phải vì thế không, Chính trị viên Thâu nhon nhón đến chỗ tôi và Đại thì thào:
“Tình hình không ổn lắm. Bộ đội đông, chỗ nấp thiếu. Hai anh đi về sau cho an toàn, được không?”
Tôi nhìn Đại, về hay ở là do anh quyết định. Đại có hơi phân vân nhưng rồi cũng gật đầu chấp nhận. Trời đã nhập nhoạng. Chúng tôi dò dẫm đi ngược lên, xa dần những hiểm nguy mà đồng đội đang chịu đựng. Bất thần, gần tới đỉnh dốc, những loạt đạn nổ đanh, hùn hụt xé gió sát rạt. Đầu đạn cắm phầm phập cạnh chân, cày đất lên bốc bụi khét lẹt. Tôi không hiểu chuyện gì co người lại. Tóc dựng đứng. Chỉ còn chờ may rủi của số phận. Đại bình tĩnh hơn, nhận ra đạn đang bay về phía mình là của ai. Anh thét lên: “Đừng bắn nữa, bên mình đấy”. Thì ra trên đỉnh đồi là tổ cảnh giới. Hai chiến sĩ được giao nhiệm vụ này, thấy những ngọn bói rung rinh nhích lên đồi, ngỡ là địch, lẩy luôn cả băng đạn AK. Rất may đây là lính mới toe, vừa bắn vừa run. Cả hai nằm xuống, ngắm như ở thao trường vậy mà không viên nào trúng “mục tiêu”. Khi tôi và Đại nhìn thấy “đối phương” thì cả hai mặt cắt không ra máu đang quay đầu chạy như bị hổ đuổi. “Đứng lại đi, đồ thỏ đế ạ. Chúng tao chứ ai đâu mà chạy”. Đại nói, còn tôi hết hồn. Đến hôm nay, ngẫm lại vẫn thấy sao mình tốt số. Tầm bắn giữa hai anh lính trẻ tới chỗ tôi và Đại chỉ chục mét trở lại chứ bao nhiêu. Ai bắn mà chả trúng. Vậy mà trật. Trận đó tôi và Đại xui xẻo, nhưng dưới phía đường số 1, quân ta nổ súng giòn giã. Thắng đậm.
Cũng trên đất Quảng Nam, cuối năm ấy, suýt nữa tôi bị viên đạn bất cẩn của cô phóng viên cùng đơn vị Vũ Thị Hồng cho “chầu trời”. Thứ bảy, tôi và cô lau súng, ở nơi trú quân của Mặt trận Quảng Đà. Khoảng cách tôi và Hồng chỉ một sải tay. Vậy mà đột nhiên có tiếng “đòm” gọn phát ra. Tôi choáng váng ngã ngửa trên đất. Viên đạn xuyên suốt hai đùi tôi, máu phun như vòi nước. Thì ra cô Hồng sử dụng K59 lần đầu. Khi cô lắp băng đạn vào hộp, một viên lên nòng mà không biết. Trước khi cho súng vào bao, cô bóp chết cò cho an toàn lại là lúc không an toàn cho cái thân tôi. Y sĩ băng bó vết thương nói: “Chân trái anh bị gãy, chân phải đứt động mạch”. Thế là hết. Tôi nghĩ và một nỗi buồn vô hạn ập đến. Đêm đó, hai người lính của tỉnh đội khiêng tôi băng rừng, chạy sầm sập vào bệnh viên dã chiến mặt trận. Cứ ngỡ “ngỏm”. Không thế cũng bị cưa chân. Vậy mà rồi chẳng có gì nguy hiểm. Đầu đạn không phá ra, còn nguyên, chỉ xâu qua phần mềm. Tạo hóa có những trò đùa đến hay. Hình như cô Hồng có giữ cái đầu đạn ấy, không biết còn không?
Xin kể thêm một kỉ niệm về lần được tham dự trận đánh ở Thượng Đức. Đây là một chi khu quận lị của đối phương được Mĩ đổ tiền của xây dựng thành một chốt điểm ngăn chặn lực lượng của ta di chuyển từ miền Bắc vào. Khả dĩ ta phải mở đường Trường Sơn qua đất Lào vì chốt chặn này đây. Mãi sau này tôi mới hiểu hết tầm quan trọng của Thượng Đức. Ấy là sự thắng bại của trận đánh liên quan đến quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương: Có giải phóng miền Nam năm 1975 hay không?
Lúc đó vùng rừng núi này khá thâm sâu, đói khát, và nguy hiểm. Tôi bị lạc ở Hiên, trong mênh mông cây rừng lác đác có những ngôi nhà lá của đồng bào dân tộc. Tôi dạt vào một nhà, được dân cho trú ngụ ăn ngủ hai ngày hai đêm. Bộ đội đông như cây rừng, nhưng ai cũng quán triệt tinh thần bí mật nên hỏi về các đơn vị rất khó. Tôi đang ngu ngơ ở bìa rừng, dọc sông Vu Gia thì gặp nhà văn Cao Tiến Lê. Tưởng anh cũng đang tìm về trung đoàn, mừng húm. Té ra không phải vậy, anh bảo: “Cậu cứ sồn sồn lên làm gì thế. Mình vừa ở đó ra đây. Tốt nhất cứ lang thang với mình. Đánh xong rồi cùng về hỏi chuyện, rồi tha hồ mà viết, thế thôi”. Có lẽ nhìn thấy nét mặt ỉu xìu của tôi, anh nói thêm: “Cách đánh của quân “triều đình” không giống cách đánh quân địa phương của cậu đâu. Pháo binh sẽ “làm cỏ” sạch banh trận địa. Bộ đội chỉ lên thu vũ khí bắt tù binh”. Anh Cao Tiến Lê lúc đó là nhà báo tầm cỡ của Báo Quân đội nhân dân lại cũng là nhà văn đã có những sáng tác xuất sắc. Tôi tin anh và muốn được như anh lắm nhưng lại sợ ngày về sẽ nói “ngọng” khi báo cáo cơ quan về chuyến đi của mình nên đành phải chia tay.
Ấy thế rồi lại lạc, suýt nữa thì rúc vào ổ phục của thám báo. Đến khi Thượng Đức vừa thất thủ, tôi lao theo chỉ huy trung đoàn vào trong đồn ngay. Sợ rằng không vào luôn chẳng mấy chốc địch sẽ dội pháo, thả bom, tái chiếm như các chi khu quận lị trước đây, mất cơ hội thâm nhập. Khổ thân, vừa dứt điểm, bộ đội đã vào hết hầm hào trú ẩn. Tôi bơ vơ một mình. Thi thoảng gặp những con chó đói đang cào bới những xác tử thi. Nó nhe răng như muốn xông tới đớp.
Pháo các nơi của địch bắt đầu dội tới. Tôi thành gã khờ, ngu ngơ để bộ đội hét cho: “Cái anh kia điên à? Không muốn sống nữa à?” Tôi không còn biết xoay xở cách sao. Muốn ra khỏi đây cũng không biết đi hướng nào. Bỗng nhìn thấy một đoàn người đang gồng gánh dìu níu nhau qua chiếc cầu nhỏ sang sông. Đoàn có người già, trẻ con và cả lợn gà mang theo. Dân chạy nạn. Chắc họ đi về phía đơn vị tự quản. Nắng gắt, bụi bốc mờ mịt. Thỉnh thoảng một quả pháo giáng đến sát rạt khiến mọi người díu cả vào nhau, trẻ con khóc, kêu oai oái. Lúc đó, có một chị tuổi chắc cũng trên ba mươi, ẵm con nhỏ trên tay, nhìn tôi chăm chắm như muốn cầu cứu gì đó. Quả nhiên, chị mếu máo nhờ tôi bế cháu nhỏ. Bầu vú chị cương cứng sữa chảy ra ướt đẫm ngực áo, nhưng không thể dừng lại cho con bú. Không biết chị thương con hay đau mà mặt co lại, xót xa, nước mắt nhòe nhoẹt. Tôi liền bế cháu nhỏ mới vài tháng tuổi giúp chị và cùng “hành quân” với đoàn người. Dọc đường đi, dù mỏi mệt tôi cũng hỏi được khối chuyện, thu thập được nhiều thứ, sau này thêm tư liệu cho hai cuốn tiểu thuyết Thượng Đức và Đỉnh máu.
Đến giờ, có thể nói nhiều trang văn của tôi khởi đi từ vùng đất Quảng Nam. Con người và xứ sở này là quê hương thứ hai của tôi. Chiến tranh đã qua đi nhưng những năm tháng sống chết cùng đồng đội và nhân dân nơi đất Quảng vẫn mãi còn trong kí ức...
Hà Nội - Quảng Nam, 2024
N.B
VNQD