. LÊ VI THỦY
Bóng chiều ngã xuống sau đỉnh núi, những vệt sáng màu cam vẫn còn vương vãi khắp thung lũng, không gian một màu rực đỏ, ma mị. Bà Tiêng vắt cái gùi trên lưng đi ngược về phía làng. Những chái nhà sàn xa xa đang hun những sợi khói bếp màu xám tản dần vào khoảng không mờ ảo.
Thằng Kút ngồi thụp xuống giữa những ngôi nhà mồ, ngửa mặt nhìn các ô sáng trên bầu trời len lỏi qua những tán cây cổ thụ của khu rừng ma. Giữa tiếng chí chóe của hàng trăm con chim cuối ngày đang bay về tổ, nó nghe như lẫn cả tiếng người vọng lên từ lòng đất. Thằng Kút dỏng tai. Nó đi lại gần một cái mồ, áp chặt tai xuống đất.
Nhưng chỉ có tiếng u u vọng lại, đứt quãng.
Làng Blo Dung nằm chênh vênh trên sườn núi. Bà Tiêng xiêu vẹo chống gậy leo lên những đoạn dốc dài. Gió bắt đầu thổi, những bước chân của bà nặng hơn. Cách đây một năm, lần đầu tiên thằng Kút bỏ đi, bà Tiêng cùng dân làng tìm thấy nó đang cuộn tròn như một con cuốn chiếu trong một cái nhà mồ, hai mắt đỏ ngầu, đẫm nước. Và từ đó, mỗi chiều nó lại chạy về phía đỉnh núi, nơi những ngôi nhà mồ âm u, với những bức tượng mồ sẫm màu, méo xệch theo thời gian.
Bà Tiêng lên đến đỉnh núi thì trời cũng đã chuyển tối. Trước lối vào của khu nhà mồ, bà ngần ngừ một chút. Đã lâu lắm rồi… bà không nghĩ mình sẽ quay lại khu nhà mồ thường xuyên đến vậy, kể từ ngày bà làm lễ bỏ mả cho ông Breng, chồng bà. Trăng lên, mọi thứ như được soi rọi rõ hơn. Thằng Kút đang nằm ngủ bên cạnh nhà mồ của ama nó. Đứng trước nhà mồ của ông, bà có chút xao động, nhưng nước mắt không chảy, chỉ thấy cay cay ở mũi. Ngày ông bỏ đi, khi ấy bà mới vừa chớm có thằng Kút. Đến khi nó mười tuổi, bà mới đủ tiền làm lễ bỏ mả cho ông. Trong mười năm, những bước chân hàng ngày lên đỉnh núi của bà như mòn luôn con đường, bà nhớ từng cái cây, từng ngọn cỏ, bà mang cơm cho ông, nói chuyện với ông, kể cho ông nghe mỗi ngày thằng Kút lớn lên như thế nào, niềm vui nỗi buồn trong nhà ra sao, ông đều biết hết. Cuộc đời đã khổ lắm rồi, vậy mà giờ ông còn kéo theo thằng con đến đây với ông, ông muốn bà phải sống dở chết dở một lần nữa hay sao?
Thằng Kút đang ngủ ngon lành cạnh những ché rượu cạn, bà định lay nó dậy nhưng rồi thôi. Trăng đêm nay sáng hơn mọi hôm, nhưng bà chỉ thấy thứ màu vàng vọt bao trùm. Ông Breng đứng cạnh bà, đôi mắt rất buồn, nhìn thằng Kut. Bà cũng nhìn thằng Kut, nỗi buồn chẳng thể nói ra, cứ đào sâu mải miết trong tâm khảm một người mẹ.
Ama mất sớm, thằng Kút côi cút cạnh bà mà lớn. Thằng Kút giống ama ở niềm đam mê tạc tượng. Khi mới lên bảy, thằng Kút xin mẹ cho đi học với một nghệ nhân gần nhà. Bà Tiêng kiên quyết không cho. Nhưng thằng Kút vẫn lén lút học rồi về đem rìu ra tự đẽo gọt các khúc gỗ. Bà phát hiện ra những bức tượng nhỏ xíu cất trong đống củi dưới sàn nhà. Thằng Kút bị đánh đòn vì không nghe lời. Những bức tượng để ở trong nhà luôn nhắc đến nỗi đau tận cùng của cuộc đời bà. Vì nó mà bà mất người đàn ông bà thương yêu nhất…
Ngày xưa, tạc tượng là niềm đam mê tận cùng của ông Breng. Qua bàn tay cần mẫn, tài hoa của ông, những bức tượng gỗ được thổi vào sức sống. Những lần làng có người làm lễ bỏ mả, họ đều đón ông Breng về. Một lần ông vào rừng tìm gỗ thì bị cây ngã đè chết. Cái chết đến đột ngột, ông chưa kịp gặp bà để nói lời cuối, bà cũng không còn cơ hội báo cho ông tin vui. Người chồng nhanh nhẹn, hoạt bát đã chỉ còn là cái xác tím tái, bẹp dí với gương mặt biến dạng. Bà đau xót, như muốn chết đi cùng với ông, nhưng một sinh linh nhỏ vừa mới chớm trong bụng không cho phép bà yếu đuối. Bà không muốn thằng Kút đi theo nghề của ông… Nhưng đến năm lên mười lăm tuổi, thằng Kút không còn là đứa trẻ ốm yếu như xưa mà trở thành chàng trai rắn rỏi, nhanh nhẹn, bà không còn cấm nó được nữa. Nhiều lần nó trái ý bà, theo những nghệ nhân trong làng lang thang khắp rừng già. Thằng Kút thích tạc gỗ và thích cây rừng. Biết không thể dập tắt niềm đam mê của con, bà Tiêng cũng dần chấp nhận.
Gió xao xác gió.

Minh hoạ: Văn Minh
Những tiếng đục đẽo trong đêm khuya như những ngón tay đang miết vào một miếng tôn mỏng, dội xuống bên cạnh vách nhà khiến bà Tiêng khó ngủ. Bà trở mình khẽ nén tiếng thở dài. Bên ngoài thằng Kút vẫn ngồi đục bên cạnh rất nhiều khúc gỗ mới đem về hồi chiều. Má nó hóp lại, đôi mắt thâm quầng. Cứ hết cơn say nó lại đục, hết đục đẽo lại say. Thằng Kút dường như im lặng trước mọi việc, đôi mắt nó càng sâu thẳm hơn. Bà Tiêng choàng thêm áo, ra ngồi ngoài hiên, nơi cầu thang gỗ do chính tay ông Breng làm, có đẽo hình cặp vú nhẵn thín bởi thời gian. Từ ngày thằng Kút về ở lại với bà, những tưởng hai mẹ con sẽ bớt cô đơn hơn. Nhưng không phải. Nỗi cô đơn, nỗi đau dường như tăng lên gấp hai lần. Nhìn thằng Kút, bà thở dài, phải chi ông Breng còn ở đây.
Bất ngờ, thằng Kút dừng tay. Nó thừ người rồi bất ngờ ôm lấy bức tượng đang đẽo dở. Nó xoa cái thân hình cong queo, khô khốc với những nỗi đau hằn lên khuôn mặt. Ánh trăng ôm lấy nó, khuôn mặt nửa sáng, nửa tối. Nó nấc lên. Dường như có một màn sương bao phủ lấy nó. Bên tai nó, tiếng cồng chiêng vang lên văng vẳng trong âm u của núi rừng. Tiếng già Kol loãng trong gió: “Cầu cho cô dâu, chú rể có nhiều sức khỏe và sinh sống với nhau hiền hòa như nước. Trong ngày hôm nay, hai người đã thành vợ thành chồng. Nhờ các vị thần núi, thần rừng, thần nước, thần ruộng giúp đỡ hai vợ chồng; khi đi làm ruộng, làm nương làm rẫy, khi đi xúc cá, bắt cua luôn đi cùng nhau, không xa rời nhau; chồng vác cuốc, vợ mang gùi, chồng đi trước, vợ đi sau, ai bị ngã người kia phải kéo lên. Khi đi làm phải nói chuyện, đùa giỡn với nhau vui vẻ. Hôm nay, hai vợ chồng đã ăn cơm một nhà, ngủ chung một giường để đẻ con nhiều như hạt đu đủ, nhiều như con kiến, con mối”. Hai chiếc vòng tay bằng đồng được trao nhau. Kut nắm tay H’Nia, hạnh phúc.
Ngày vợ thằng Kút trở dạ tưởng là ngày vui, hóa ra lại là khởi đầu của những nỗi đau. Thay vì đứa trẻ xinh xắn, một cục máu đỏ hỏn rơi ra, cái đầu to ụ, tay chân bé xíu quơi quơi, hình thù khác lạ, chẳng giống những đứa trẻ sơ sinh khác. Đứa trẻ cất tiếng khóc e é không rớt ra được khỏi cổ họng. Tiếng thét của H’Nia xé toang không gian yên tĩnh của rừng. Đôi mắt thằng Kút dại đi khi nhìn thấy đứa bé. Bà Tiêng ôm lấy đứa nhỏ, nhìn về phía mẹ nó, mồ hôi ướt đẫm, ngất lịm. Đôi tay bà rung lên từng nhịp.
H’Nia chuyển dạ đứa thứ hai trong nỗi thấp thỏm của cả nhà vào một đêm trăng tròn. Đứa trẻ chào đời bên tiếng suối róc rách và chính tay bà Tiêng đỡ. Đứa cháu lọt lòng, hai mắt to bự lồi ra chào thế giới, tay bé xíu như hai miếng thịt dư gắn lên thân thể. Đứa trẻ cất tiếng khóc rồi tắt lịm. Thằng Kút ôm con, như một người mộng du, đi thẳng về phía rừng ma, ngồi cạnh những những bức tượng ôm mặt khóc tức tưởi tới sáng. H’Nia ngồi đờ đẫn, từ ngày sinh con, bông hoa tươi tắn nhất làng bỗng trở nên héo úa, câm lặng, miệng H’Nia chỉ lẩm bẩm mỗi câu “Yàng phạt con rồi! Yàng phạt con rồi!”
Thêm một vài đứa trẻ trong làng sinh ra giống như con của thằng Kút. Lo lắng, căng thẳng, mọi nghi vấn đổ dồn về phía nhà thằng Kút. Dân làng đồn thổi, thêu dệt đủ chuyện về đứa cháu của bà Tiêng. Họ bảo do thằng Kút hay trèo lên mấy cây cổ thụ khu nhà mồ nên bị ma rừng nhập, có người bảo nó bị thần linh quở trách nên con mới bị vậy… Lời đồn đại càng ngày càng nhiều, những kẻ tò mò đến xem cũng nhiều, mà xa lánh gia đình bà Tiêng cũng nhiều.
Những cuộc cúng tế diễn ra. Cúng thần rừng, thần nước, thần gió, thần lửa, thần ruộng… Những con trâu, con bò trong làng lần lượt trở thành vật hiến tế. Nhưng nỗi đau của những người có những đứa con không bình thường thì chẳng thể xoa dịu được. Có người phát điên khi nhìn thấy đứa trẻ. H’Nia cũng thế, cô đi lang thang trong các cánh rừng, đôi lúc khóc đôi lúc cười. Thằng Kút cứ đi theo sau, những bước đi vô định của H’Nia đều hướng về khu rừng ma. “Ru ơ… ru con ơi đừng khóc nào. Ru ơ… ru con ơi ngủ ngoan nào. Cho mẹ cha vào rừng làm nương ơ… làm rẫy ơ... Rẫy ngô đang trổ bông. Cây mía chưa chặt. Đừng khóc nữa con ngoan. Để mẹ cha làm nương rẫy”. Đôi tay H’Nia đưa lên đưa xuống như đang bồng con. “Ru ơ ru, con ơi đừng khóc nào. Ru ơ ru, con ơi ngủ ngon nào. Cho mẹ cha vào rừng làm nương...ơ... làm rẫy. Mai, ngày mai, con như đàn chim phí bay giữa trời. Con sẽ đi khắp mọi miền. Con sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn hoa pơ lang”. Giọng hát của H’Nia trong vắt như nước suối rừng, lúc trầm lúc bổng, lúc lên cao, lúc xuống thấp như lời thầm thì. Thằng Kút chỉ biết ôm H’Nia vỗ về. Suốt một thời gian dài H’Nia cứ đi về như thế, cho đến một lần, khi thằng Kút đi tìm thì H’Nia chỉ còn là một cái xác lủng lẳng trên cây giữa rừng ma.
Thằng Kút quỳ bên bờ suối trong lễ cúng xả xui sau cái “chết xấu” của vợ, trước mặt là một con dê cùng một ghè rượu. Thầy cúng mặc bộ đồ của H’Nia lội ngược dòng suối đến chỗ kín đáo trút bỏ bộ đồ thả xuống nước, thay vào bộ đồ của mình. Thằng Kút ngồi nhìn bộ đồ trôi xuôi, thẫn thờ. Bà Tiêng đứng sau thằng Kút, im lặng dõi theo, bà sợ thằng Kút sẽ nhảy theo dòng nước. Nhưng không, nó cứ ngồi đó mặc cho thầy cúng và dân làng ngồi lại, nấu nướng, cùng ăn bằng hết con vật hiến tế. Đến lúc mặt trời lặn, mọi người ra về, không ai được mang theo bất cứ thứ gì, kể cả vật dụng xẻ thịt, dùng nấu nướng thức ăn, họ sợ Yang Sat (Thần xấu) theo về. Khi mọi người đã về hết, thằng Kút mới đứng dậy chạy theo dòng suối, ôm lấy bộ quần áo của H’Nia đang bị mắc lại nơi tảng đá. Thằng Kút đứng giữa dòng nước, mặc cho bóng tối đang dần bao trùm lấy khu rừng.
*
* *
Định đi nữa à?
Bà Tiêng hỏi mà như tiếng gọi với lại dù biết thằng Kút không trả lời, khi nó lao mình chạy đi trong chiều chập choạng.
Một mình bà trong căn nhà sàn no gió, thênh thang, cái bếp nhỏ bà cũng chẳng buồn nhóm lên, nguội lạnh. Bà ra mỏm đất đầu làng ngồi nhìn về phía đỉnh núi, nơi lâu lâu có vài tiếng chim bị giật mình, quang quác bay lên bởi những nhát rìu. Đôi mắt bà ráo hoảnh. Cuộc đời bà vốn đã không bằng phẳng, sau khi chồng mất, theo tập tục bà được “nối dây” với em trai của ông Breng nhưng bà đã từ chối, chấp nhận mất đi con trâu duy nhất của gia đình, cùng bộ chiêng quý để chịu phạt cho làng. Tình yêu của bà dành cho ông Breng quá lớn, không thể có người đàn ông nào thay thế được. Bà đã yêu ông ngay từ khi ông là một thanh niên luôn hừng hực sức trai trẻ. Chiến tranh, hai người cùng đi gùi gạo, cáng thương, cứu chữa cho bộ đội đánh Mĩ ở Đức Cơ, Plei me… Hòa bình về, đôi vai dài rộng của ông đã khiêng được bao nhiêu cây gỗ, tạc được bao nhiêu là tượng mồ. Bà yêu cái tài của ông, mọi thứ ông làm ra đều như có linh hồn, có một câu chuyện, đời sống riêng. Những tưởng thằng Kút nó sẽ hạnh phúc hơn bà, nhưng nó cũng không khác bà là mấy khi đi trên con đường đầy sỏi đá, đôi chân của nó đã phồng rộp, sưng tấy khiến bà xót xa.
Bà Tiêng và thằng Kút sống lặng lẽ. Những cái chén mẻ, cái nồi sứt quai không buồn thay, cứ nằm im như thế. Lưng bà còng hơn vào những xế chiều, khi mặt trời đỏ hồng dần dần chìm lấp vào sau những ngọn núi, lúc ấy bà mới buông khuôn mặt của mình để đi vào giấc ngủ méo xệch những giấc mơ.
*
* *
Nhà thằng Kút bị phạt một con bò và những ghè rượu để tổ chức cúng tại nhà rông. Già làng Kol đọc những lời khấn vái tạ lỗi đến thần linh, và thầy cúng bắt đầu công việc của mình. Không tiếng cồng, không tiếng chiêng, mọi thứ diễn ra trong buồn thinh. Thằng Kút lặng lẽ nhìn những con mắt tò mò của dân làng dành cho nó. Nó sẽ ra đi với hai bàn tay trắng bởi đã chống lại tục lệ nối dây của làng như amí của nó ngày xưa. H’Ni nhìn thằng Kút với đôi mắt rất buồn, thằng Kút biết, nhưng H’Ni còn quá nhỏ để hiểu hết những nỗi đau mà chị gái H’Nia phải trải qua. H’Ni còn cả một tương lai dài phía trước, còn nó thì còn cả một tình yêu trong tim, cả những vụn vỡ không gì chữa lành được.
Thằng Kút vác rìu vào rừng. Bóng trăng trên đầu như đi theo từng bước chân của nó. Con đường mòn ban đêm như thu hẹp lại, trước mặt là một màu đen, chỉ có những đốm sáng xanh nho nhỏ đang quấn lấy thằng Kút. Tiếng rìu bổ vào đêm, những vết thương đau nhói. Tiếng rìu hoà cùng tiếng cồng chiêng vang vọng khu nhà mồ. Ánh lửa bập bùng, loé lên ở một góc rừng. Cây rừng đang khóc, tiếng khóc đau thương, đứt quãng, loảng xoảng vỡ trong tâm trí nó. Hình ảnh H’Nia đung đưa trong gió, trên một cành cây cổ thụ, đôi mắt nhắm nghiền, hai bàn tay buông xuôi, im ắng như ánh trăng tròn, mái tóc xoã dài, trên đôi mắt vẫn còn đọng lại những giọt nước mắt. Thằng Kút chìm mình trong bóng tối lờ nhờ đang bao trùm. Nỗi đau của nó lớn dần, ăn dần vào tâm trí. Đi đâu nó cũng thấy khuôn mặt của H’Nia đang mỉm cười với nó. Giá nó lấy trái tim của nó ra mà bóp, mà cấu, mà xé được thì nó đâu có đau như thế này.
Đôi mắt con trâu trắng nhìn thằng Kút như đang khóc bởi những nhát chém. Đôi chân con trâu trắng khuỵu dần và ngã vật xuống. Nhưng không có tiếng reo hò, tiếng khóc than. Trống, chiêng không dùng đến, cả những điệu xoang cũng không dùng đến. Lễ bỏ mả của cái chết xấu im lặng đến đáng sợ. Thằng Kút làm lễ bỏ mả cho cả ba người thân của nó, nó không đau sao được. Dân làng mổ thịt con trâu, và nấu nướng cũng lặng lẽ. Lễ bỏ mả này chỉ diễn ra trong ngày chứ không phải kéo dài nhiều ngày như thông thường. Những ché rượu dần cạn, mọi người cũng dần tản về nhà sau khi đã ăn uống no say. Thằng Kút sau nhiều hơi rượu cay đã bắt đầu đứng dậy, đắp lại cái mồ đang ngả nghiêng tạm bợ bởi cái chết xấu không được xây kiên cố, không cả mái che, rào chắn. Rồi nó mang những cái tượng đóng xung quanh. Tượng những con vật, những món đồ chơi yêu thích của trẻ con, những bức tượng người phụ nữ mang khuôn mặt của H’Nia… Nó muốn H’Nia có người bầu bạn. Thằng Kút cứ hì hục làm cả đêm không ngơi nghỉ. Bà Tiêng cũng ở lại. Nhìn thằng Kút, bà lại thở dài, cuộc đời sao trớ trêu như thế. Ánh lửa bập bùng cháy, rồi lụi dần khi trời dần về sáng.
*
* *
Sau những cú sốc cuộc đời, Thằng Kút chìm trong rượu một thời gian dài rồi đột nhiên ngừng hẳn. Cả ngày nó chỉ ở ngoài trời, không chịu ăn uống gì. Bà Tiêng xót con, bắt thằng Kút ăn một chút cơm lam bà vừa nấu trong ống tre, nhưng nó cầm rồi để đấy, tiếp tục công việc của mình. Xung quanh thằng Kút ngổn ngang tượng, tượng con chim, con chó, con cá, con gà, những món đồ chơi của trẻ con, những đứa trẻ và những người phụ nữ với khuôn mặt giống nhau… Bà nhìn những bức tượng, nhìn con, nhìn cháu rồi lại khóc. Bà nghe thấy tiếng nói trong những bức tượng, bà nghe thấy tiếng cười giòn tan của những đứa trẻ gọi bà ơi. Bà mường tượng H’Nia dịu dàng nắm lấy tay chúng, trên tóc cài thêm một bông hoa rừng khiến khuôn mặt thêm rạng rỡ. Ông Breng đang ôm lấy bà, vỗ về... Bà khẽ thở dài trở lại thực tại, nhìn bóng mình đổ dài theo bóng chiều, bên một bóng hình cô độc đang vung rìu lên cao rồi hạ xuống, rồi lại đục, lại vát những khuôn mặt giống nhau, mà nhìn vào bà biết ngay đó là ai…
Những giọt nước mưa rơi lộp độp trên mái tranh. Đây là cơn mưa mùa thứ năm kể từ ngày H’Nia và các con mất. Thằng Kút không khóc một lần nào nữa, kể từ ngày nó ôm cái áo của H’Nia khóc lặng giữa suối. Đôi mắt thằng Kut ngày càng sâu hơn, chiều nào nó cũng lên khu rừng ma ngồi tới đêm mới về, có khi nó ngủ lại.
Những đứa trẻ dị tật vẫn tiếp tục ra đời. Nhiều đoàn người ghé lại làng, họ kiểm tra nguồn nước, kiểm tra đất. Họ bảo vùng này trước đây là bệnh xá B3 thời chống Mĩ nên bị đánh phá rất ác liệt, bị rải chất độc da cam nhiều. Rồi sân bay Đức Cơ gần đấy, Mĩ rải thuốc diệt cỏ để bảo vệ căn cứ. Chất độc màu da cam không phát ra ngay mà ngấm ngầm, âm ỉ phát triển trong cơ thể, truyền qua các thế hệ để một ngày phát lên. Nghe họ nói, bà Tiêng lờ mờ nhớ lại những lần máy bay Mĩ rải thứ như sương xuống những cánh rừng hai ông bà ẩn nấp khi cùng ông đi vận tải… Phải rồi, phải rồi… Bất chợt bà ôm mặt khóc.
Làng được yêu cầu di dời. Nhưng mảnh đất này, khu rừng này đã là máu thịt của làng. Người làng không chịu chuyển đi. Cũng giống như thằng Kút, H’Nia và các con còn đang ở đây, làm sao nó chuyển đi nơi khác được. H’Nia nhìn thằng Kút mỉm cười với nụ cười tươi như hoa rừng, hai tay dắt hai đứa trẻ, theo sau là ông Breng. Thằng Kút nghe H’Nia dặn dò nó giữ gìn sức khoẻ, tiếng nói nhè nhẹ, mỏng hơi sương. Ông Breng nắm tay nó thật chặt, dặn nó hãy chăm sóc amí Tiêng. Hình ảnh trước mắt nhạt nhòa dần dù thằng Kút cố sức nắm tay H’Nia nhưng H’Nia như sương sớm mờ dần mờ dần với nụ cười trong vắt cùng tiếng cười của hai đứa trẻ. Ánh trăng vàng nhàn nhạt phủ lấy khu nhà mồ, trong giấc ngủ thằng Kút nở nụ cười…
Thằng Kút mở một lớp dạy nghề tạc tượng. Những tưởng không có ai chịu học, vậy mà những đứa trẻ trong làng đến đăng kí rất đông. Có những đứa trẻ đam mê tạc tượng như thằng Kút lúc nhỏ. Chúng đã biết thổi hồn vào những khúc gỗ vô tri để tạo nên những bức tượng nhà mồ, những người bạn luôn ở bên cạnh bầu bạn, an ủi những linh hồn đi về thế giới atâu bớt cô đơn, lẻ loi một mình.
Chiều nay thằng Kút lại đi tới khu rừng ma.
Dưới ánh chiều tà, những bức tượng nhà mồ như thức cả dậy, lung linh, huyền ảo...
L.V.T
VNQD