. ĐỨC ANH
Trong cuộc đời lái taxi của tôi có những vị khách thật lạ, vị khách hôm nay là một người như thế. Tất cả bắt đầu từ lúc tôi tắt phựt nhạc trên xe. Chính động tác này khiến tôi nhận ra ông khách ngồi ghế sau mặc áo vest màu vàng xỉn, không phải màu nâu như tôi hằng tưởng.
“Rẽ trái sang Hoa Bằng. Đi một đoạn nữa, tầm bốn trăm mét, là phố Bà Triệu.”
Trong những lối đi chẳng chịt ấy, tôi phát hiện một khoảnh khắc thân thuộc trong đoạn băng qua phố Trần Khát Chân, cứ như một phần thể phách tôi đã gửi lại ở đấy vĩnh viễn. Trong một giây ngắn ngủi, niềm yêu đời xưa kia của tôi bừng lên. Cơ thể râm ran những đường máu đã thông lại. Thế nên tôi có phần hơi bực khi không nán lại được con đường ấy bao lâu đã phải rẽ sang Trần Cao Vân. Một con đường buồn tẻ, hôn mê, suy sụp trong tàn chiều.
Minh họa: Lê Anh
“Rẽ! Rẽ! Rẽ! Bên kia cơ mà.” “Cháu biết rồi chú!” Tôi phụng phịu, rồi băng qua ngã ba, chọn một tuyến khác để tránh ách tắc - “Chú yên tâm cháu đi xe bao năm nay rồi.” Người đàn ông chắp hai tay lên phía trước đầu gối, y như đang ôm một chiếc cột vô hình và ngó nghiêng một trận quần vợt qua biển vai người. “Chú mày cứ cho tao đến ngõ tên là Thanh Hương ở phố Trần Bình Trọng. Cái ngõ đấy bây giờ mất tên rồi, mà tao không nhớ số. Chỉ biết ở đầu có một cái cột điện chuyên dán quảng cáo lớp dạy tiếng Thái, nhưng hình như của hai trung tâm khác nhau. Số điện thoại đổi liên tục, một trung tâm đầu tiên kẻ vẽ bảng hiệu rất tử tế, cái thứ hai trông hơi cẩu thả. Số điện thoại để lệch hẳn về mép trái như kiểu bị đẩy lồi ra ấy.”
Người đàn ông còn nói rất nhiều, ban đầu nhỏ dần, chìm dần đi như mê sảng rồi lại đột ngột vang vọng. Vì khi ấy tôi tập trung nghe giọng nói. Một giọng nói thân thuộc, nhưng xa xăm, tựa như một bài hát năm cũ chợt nhớ lại trong mơ mà sáng dậy đã quên hoàn toàn thức điệu. Sau cùng của cuộc suy tưởng này tôi mới ngộ ra cái giọng ấy nghe giống chú Hải quá cố của tôi. Chú Hải em ruột bố - một thời trộm cắp huy hoàng ở phố núi, ra tù về ở nhờ nhà tôi trong sự căm ghét của mẹ tôi, nhưng đã mua cho tôi một quả bóng da và dạy tôi bơm bóng. Rất nhiều buổi chiều chú ngồi im lặng rất lâu ở đầu hè, chỗ có cây cau cảnh, rồi vụt đứng lên, dáng người cao lớn lồng ngồng lướt qua đoạt lấy quả bóng trong chân tôi. Ôi những ngày thơ hạnh phúc không được bao lâu vì ngay sau đó chú đã lại đi, lần sau về chỉ là nhúm tro cốt. Hơn hai chục năm qua đi, nhiều thứ đã thay đổi, nhưng trong lòng tôi luôn tin rằng những ai nói giọng nói giống chú Hải đều là người có thể làm bạn được.
Trở lại với câu chuyện, đúng là tôi đã nhầm đường thật. Vì phố Trần Bình Trọng không nằm ở phường này. Quái lạ. Tôi vòng lại, nhưng phía ấy tựa như một trận cờ vây tua nhanh, đã mau chóng kín đặc các phương tiện. Qua gương tôi thấy gương mặt ông ta giãn ra, cơ hàm chuyển động như đang nhai gì đó, tổng thể nhìn như tấm bản đồ da dê ở cửa hàng đồ cũ. Giọng nói bập bõm của ông ta biến mất trong một khoảnh vang động còi xe. Tôi thầm đoán phía sau thành ghế lái, cái giọng chú Hải đó đang ôn lại dĩ vãng một chiến tích nào đó trong đời. Thông thường thì là thắng lợi về bất động sản, những tháng năm tuổi trẻ ở Đông Âu, một cuộc thắng kiện, những lần hút chết hay một lần phá dỡ những lầm tưởng lâu năm... Vì hầu hết tất cả các khách trên xe của tôi ở lứa tuổi này, đều không còn gì ngoài các chủ đề ấy.
“Nhưng cuối cùng thì ta cũng quyết bán cái của ấy...” Lúc này đã trở lại được ngã ba hồi nãy, tôi mới bắt đầu nghe lõm bõm được một câu. “Mảnh đấy á? Sao chú không giữ lại?” - Tôi vờ hỏi vì đoán đó là một miếng đất. “Mảnh nào? Chắc mầy nghe bập bõm xong đoán ý chứ gì? Ta đang nói về cái món đồ ta sưu tầm. Đến bây giờ thì ta đã bán, bán sạch. Chỉ giữ lại vài ba cái nhãi nhép mang đi tặng đời cho vui.” “Chú tặng cháu đôi cái được không.” Tôi vẫn đùa. Tôi vẫn nghĩ ở lứa tuổi của ông khách, người ta cần một người nghe chuyện đến độ sẵn sàng chấp nhận và bao dung với bọn giả vờ lắng nghe. “Cho chú em xem cái này. Đảm bảo thấy oách!” Bàn tay hào hứng ấy chìa ra một vật về phía hàng ghế lái. Tôi giảm dần tốc độ. Đó là một hộp trà Lipston túi lọc màu vàng chanh, có lẽ là loại dành cho dân không biết sợ bệnh tiểu đường. Ông ta chỉ cho tôi chữ U ở góc hộp trà. Tôi cố ý vờ tập trung lái xe. Câu chuyện này có ý nghĩa gì? Tôi chỉ muốn xong công vụ, tống tiễn người khách về phía cái ngõ hấp hơi kia, nhận tiền và lùi về địa bàn thật mau. Nhưng cái vỏ hộp trà ấy óng lên một lần qua gương hậu. Chữ U trên thân hộp là biểu tượng của hãng Unilevers. Sản xuất trà, bánh, kẹo, kem, mĩ phẩm... đủ thứ.
Thông thường biểu tượng hãng này có hai mươi sáu hình vẽ uốn lượn khác nhau. Trên đỉnh là một cái tia chóe ra đấy là mặt trời. Bên đối diện cũng là một tia lửa khác, kế đó là một con chim. Đấy là biểu tượng của khởi sinh, có nguồn sống, có sự sống và có tự do. Tầng dưới, là hình con ong và một cái tế bào ADN, đấy là sức sống và sự sống. Nữa, cái cây thì rõ rồi, ba cái xòe ra phía dưới con ong, là mái tóc, và bên trái mái tóc là bàn tay. Con người được ban cho hai thứ có thể đan được vào nhau thì chính là hai thứ này. Một mái tóc là biểu thị cho cái đẹp, bàn tay là để khai phá nó. Con người bắt đầu có thân thể. Một bông hoa rất nhỏ chuội đi giữa hai biểu tượng ấy. Phía gần đáy chữ U có cái tô ở trong cùng, một cái thìa và vòng xoắn là chỉ một loại sốt, hoặc một loại tương. Đấy chắc để nói về nguồn dinh dưỡng. Xuống đáy có hình vẽ của biển, con cá và củ cải... Các hình ảnh này có một số bị đảo vị trí cho nhau. Người bình thường không để ý thì không bao giờ thấy. Nhưng có một số người sưu tầm không ngừng tìm kiếm, thu thập sự khác lạ trong sắp xếp đó.
“Ấy… ấy… đến ngõ rồi kìa.”
Tôi nhìn thấy cái ngõ Thanh Hương đó. Bây giờ nó đổi thành một con hẻm có đánh số. Không hiểu sao mắt tôi chiếu vào cái tấm phông quảng cáo trung tâm ngoại ngữ tiếng Thái. Số điện thoại bị in lệch hẳn so với hàng chữ. Người khách vội vã xuống xe không lấy tiền thừa, tặng tôi hộp trà mà ông cho là quý báu dành cho thợ săn nhập môn.
Minh họa: Lê Anh
Những ngày tiếp theo tôi vẫn chưa thoát được cảm giác tiêu cực. Tôi bắt đầu uống cà phê. Thế giới này ngày càng trở nên sắc nét: cứ như tôi đang nhìn đời qua một cái màn hình. Thế giới sáng bừng lên, những cạnh sắc mỏng manh nhất cũng chi tiết và rõ nét đến cực độ, những vết nứt và bóng đổ bỗng mịn màng lạ thường. Tôi thấy tôi mất dần bản sắc cá nhân và đối với mẹ con cu Bin, tôi cứ như thể chỉ là điền vào chỗ trống một người đàn ông nào đó. Một biến số ngẫu nhiên. Một cài đặt tùy hứng. Tối nào tôi cũng tìm từ khóa “trầm cảm”, nhưng không tìm được gì khác ngoài các bài báo mạng dịch xào xáo từ cùng một nguồn. Báo mạng đã mua toàn bộ Google, tôi kết luận thế.
Chỉ đến một hôm nọ, tôi mới nhìn ra một chữ U in trên hộp cà phê của mình. Sực nhớ ra một câu chuyện, tôi đem so sánh nó với cái hộp trà giấy được tặng. Nhìn chúng thật lâu, tựa như thôi miên tôi mới nhận ra quả thật, chữ U trên cái hộp trà, hình bàn tay và mái tóc được đảo vị trí cho nhau. Mái tóc ấy thu nhỏ đi, xoay sang hướng ngược lại, tựa như một cây đinh ba mất cán.
Và như thế nghĩa là không phải một lỗi in ấn.
Cho đến một buổi sáng trong vắt, tôi tình cờ gặp lại người khách nọ. Lần này tôi đón ông ta ở một con phố xa biệt. Ông ta có vẻ rất khoái khi nhìn thấy cái mặt thộn của tôi. “A ông em tài xế biển số xe 97R-12808. Khỏe không? Cho ta ra ngoại ô. Địa chỉ ghi trong ứng dụng ấy.” Đi được một đoạn, tôi bỗng nhận ra đầu óc mình không thể tránh được cảm giác tò mò về cái hộp trà hôm trước. Thế nên, tôi quyết định trò chuyện với người khách. Hóa ra, cái món Unilevers chỉ là một trong nhiều bộ sưu tầm của ông ta. Có tin đồn rằng ngoài hai sáu biểu tượng con còn một biểu tượng số hai bảy, nhưng rất hiếm người giờ nhìn thấy. Cạnh đó, ông ta còn có một bộ sưu tầm đáng tự hào khác là vỏ lon Pepsi in thiếu tên một nguyên liệu. Loạt ấy được sản xuất năm 2005 từ một nhà máy địa phương ở Anh. Trong số một loạt in chỉ có đúng chín cái lon bị như thế.
Tôi nghĩ ngay đến những người sưu tầm những thứ lạ thường. Một ông ở Thụy Điển chuyên sưu tầm đồ chơi khủng long chẳng hạn. Xong gì nữa? Một thằng cha chuyên ăn cắp biển báo cấm hút thuốc để mang về sưu tầm. Hắn sưu tầm được hơn một nghìn cái từ năm mươi đất nước. Nhưng sao có thể in sai cái nọ cái kia trên bao bì sản phẩm nhỉ. Tôi cứ nghĩ người ta có mẫu sẵn và cứ thế chạy máy chứ. Nhưng có lẽ đấy chính là một trong các lí do của sưu tầm. Như cái hộp trà với cái logo không chuẩn đã xuất hiện trên cõi đời, là để chỉ cho tôi thấy toàn bộ thế giới không vận hành theo kiểu tôi vẫn nghĩ.
Cuối cùng, ông khách nói chậm lại, như là thầm thì với chiếc ghế chứ không phải với tôi: “Bọn sưu tầm phải đánh mất, tận hiến, hi sinh may ra mới có thể hiểu được vài ý nghĩa của đời. Ta không có đọc sách. Vì ta bị khó đọc từ bé, chỉ đọc được những gì ngắn ngắn. Nhưng ta đã học qua một loại sách đặc biệt, đấy là tất cả các biển quảng cáo ta từng gặp, tất cả các nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, rồi ta phát hiện ra một thứ, khiến ta kinh sợ… Chú em tin không?”
*
* *
Người khách kể mình tên Thảo Trường, hồi bé ốm yếu như một con mèo mắc chứng rụng lông từ lúc lọt lòng. Đã thế mặt Trường lại còn ngơ, mắt lồi, sự xuất hiện của ông giống như một nguyền rủa đối với người đối diện. Vì mắt ông lồi, bọn con gái gọi là Trường điên. Chúng vẫn đố nhau xem đứa nào dám lại gần, lấy cái thước dí dí vào lưng ông. Thi thoảng ông cũng muốn làm chúng vui bằng cách banh miệng đuổi theo khiến cả đám chạy toán loạn, cười mệt nghỉ. Một trong số ấy cho ông một viên tẩy có mùi thơm của dâu. Ông sướng đến mức không bao giờ dùng viên tẩy đó…
Cho đến ngày kia ông nhận ra những gì viết trong sách càng ngày càng lạ lùng. Mắt lồi ông hớn lên bảng mà không sao hiểu được cái này nghĩa là gì và cái kia nghĩa là gì. Cô giáo bảo ông học dốt, cử con bé ngồi cạnh kèm. Một hôm ông quên bài tập được giao ở trang bao nhiêu, sang nhà nó hỏi. Nó đứng trên sân tầng ba nói vọng xuống là bài số tám trang số tám. Ông lẩm nhẩm hai con số tám ấy trên suốt quãng đường về nhà. Kết quả là cuốn sách giáo khoa trang tám không hề có bài số tám. Hôm ấy ông bị bắt chép phạt.
Cuộc đời học trò của ông là liên miên những buổi chép phạt. Cạnh đó là giặt giẻ lau bảng. Giặt mãi, giặt mãi cuối cùng nghĩ mình có nhiệm vụ sống còn là giặt giẻ lau bảng thật. Đều đặn hằng hửng sáng hay trưa muộn, ông vác cái giẻ ấy ra bể nước phía bên kia sân trường. Ông bắt đầu nhận ra những điều diệu kì đầu tiên trong đời mình. Rằng trong mỗi học kì sẽ có ba chiếc giẻ mới được mang đến, đều đặn vào các sáng thứ hai đầu tiên của một tuần nào đó bất kì. Những chiếc giẻ ấy ở đâu ra nhỉ? Còn bọn giẻ cũ sẽ vứt đi đâu? Và rồi ông tìm ra chỗ vứt giẻ cũ ở vườn sau vào năm lớp bốn khi đi giặt giẻ lau bảng. Cái vườn này bẩn thỉu, nhiều rác rưởi, giẻ, vỏ kẹo xanh đỏ, đồ chơi vỡ nằm lẫn trong đất. Sợ hãi, ông chạy lên lối cũ, không bao giờ bước xuống đó lần thứ hai. Kết quả ông vào lớp muộn. Cô giáo phát điên vì không có giẻ lau bảng, bắt viết năm mươi lần chữ “con chim sẻ” lên bảng. Bởi trong bài tập làm văn hôm trước, ông đã viết thành “con chim xẻ”. Chiếc bảng cao vời vợi, ông vươn tay lên để lấp đầy các dòng chữ. Phải nói thêm ông rất thạo chép phạt. Trong các hình phạt của cuộc đời, với ông chép phạt và giặt giẻ là hai món dễ chịu nhất. Chính hôm ấy, khi ngước lên bảng, ông đã nhận được điều kì diệu nhất trong đời mình: dòng chữ nhãn hiệu của tấm bảng ấy bị viết sai chính tả ở một từ.
Ông chật vật vượt qua được những năm tháng học hành, vẫn thi đỗ và lên lớp, dù vớt vát. Ngày ngày vẫn chép đi chép lại mọi thứ, từ hóa đơn tiền điện ở nhà, đến bìa sau tạp chí. Sau nữa đắm chìm, say sưa đọc các nhãn hàng quảng cáo. Ông biết phông chữ của bột giặt “Vì Dân” giống với phông chữ của bột giặt “Tide” hồi đầu mới ra thị trường. Ngày ấy, Việt Nam bắt đầu có nhiều siêu thị, ông lang thang trong thế giới của siêu thị như lạc vào vườn đào tiên, mê say nắm bắt những thần chú viết lên bao bì. Ông đọc ngấu nghiến mọi thứ có trên các sản phẩm và nếu có thời gian sẽ chép lại nó. Không bỏ qua bất cứ một hộp cá ngừ, hộp thịt lợn hấp nào chỉ vì nó giống hệt hộp cá, hộp thịt bên cạnh. Minh triết của chép phạt dạy ông rằng mọi bản sao đều không giống nhau, và ý nghĩa đích thực của bản sao chính nằm ở chỗ không giống nhau…
*
* *
Khi taxi đi gần đến địa chỉ, tôi đã thu thập được kha khá thông tin về bộ sưu tập Unilevers. Hóa ra, cái mẫu xếp lộn xộn ấy là của một nhà thiết kế người Nhật Bản. Người này là một nghệ sĩ, ông ta cố ý xáo trộn một vài chi tiết nhỏ trong biểu tượng của hãng, dẫn đến các doanh nghiệp mua nhượng quyền thương hiệu bị hố. Tất nhiên ông ta đã qua mặt cả một hệ thống lớn vì chẳng ai kiểm tra cả. Người nghệ sĩ ấy sau vụ đó đã tự sát. Song thế gian không chỉ tồn tại một nhà thiết kế vô danh ấy. Có những sản phẩm khác đã cố ý làm sai bằng nhiều lí do khác nhau, phần nhiều là để bỡn cợt cuộc đời. Và bỗng nhiên, một tin đồn xuất hiện về hình vẽ thứ hai mươi bảy trong biểu tượng hãng Unilevers được tạo ra năm 2010. Loạt sản phẩm của nó sau này bị phát hiện và hủy đi, nhưng giới sưu tầm bằng sự nhạy cảm của thợ săn, biết rằng vẫn còn ở đâu đó trên trái đất rộng lớn, cái hình vẽ thứ hai mươi bảy. Hình vẽ theo tin đồn là vẽ cái tem, dùng để tặng riêng cho các nhà sưu tầm.
“Sau đó chú mua được tấm bảng không?”
“Có, nhưng từ tay một người sưu tầm khác. Hôm ấy xảy ra chuyện khiến ta nghĩ mãi đến tận giờ…”
Xe đã dừng ở địa chỉ cần đến. Tôi nhận ra mình đã đi quá xa thành phố. Mưa nhỏ bay lất phất trùm lên khoảng không gian mênh mông của vùng ngoại vi. Một lần nữa người khách không lấy tiền thừa. Trước khi đi vào ông ghé kính cửa xe cố gắng nói:
“Người sưu tầm tấm bảng là một chuyên gia sưu tầm gỗ. Hôm đó hắn tặng ta món quà là quyển sách bài tập năm xưa. Nó có trang tám bị in ngược mặt và có bài tập số tám. Hắn làm ta tởn đến tận giờ. Ta bị vương vất ý nghĩ hắn có phải cô bạn dạy kèm năm xưa không. Tất cả bọn chúng có phải chỉ một người?”
Rồi tạm quên ông khách sưu tầm, tôi quay trở lại với cuộc sống khó khăn độ nhật. Vợ tôi nói rằng tôi không xứng đáng là người đàn ông có trách nhiệm với gia đình. Tôi kiếm được quá ít tiền cho nhu cầu học hành ngày càng lớn của cu Bi. Sách cu Bi nhiều dần lên, rồi học thêm, kĩ năng giao tiếp, múa, vẽ, đàn..., đủ cả. Một lần tôi thấy vợ tôi đi cùng taxi với một người bạn cũ của nàng. Sau đó mọi chuyện diễn ra trong lặng lẽ. Những tan vỡ hóa ra cũng giản dị, chỉ như một cái cốc nứt ra khi bị rót nước sôi. Vợ tôi nhận nuôi cu Bi.
Còn lại một mình trong căn phòng thuê, tôi bị ám ảnh mãi với câu nói của vị khách lạ lùng nọ. Tất cả bọn chúng có phải chỉ một người? Ừ, cũng có thể. Vợ tôi, mẹ tôi, bạn bè cả tử tế lẫn đểu cáng của tôi, cũng chẳng ai đối xử với tôi đặc biệt hơn ai. Tất cả chỉ có thể là một người: những người chung quanh ta, khác thể xác và cùng một linh hồn…
*
* *
Một lần dọn nhà, tôi vớ được lọ dầu thơm của vợ sau tủ quần áo. Nó là một sản phẩm của hãng Unilevers. Bây giờ những niềm tin vô thức của tôi lại được kích hoạt, tôi mang nó ra so với các biểu tượng khác. Không có gì quá đặc biệt, chỉ là bộ hai mươi sáu hình vẽ bị đảo đi một chút, và xếp với nhau không đẹp lắm, cứ như thiếu hẳn một mảnh ghép…
Ba năm liên tiếp, tôi bắt đầu học đòi sưu tầm đồ đạc. Có quá muộn không nhỉ? Đằng nào tôi cũng đã uổng phí phần lớn cuộc đời vào những chuyện không mấy ý nghĩa. Cùng với đó tôi tìm hiểu, mường tượng cuộc đời của vị khách lạ hôm nào. Vì nghĩ chỉ có hiểu được cuộc đời ông ta tôi mới phần nào hiểu và thành công trong cái nghề sưu tầm lạ lẫm này. Khi nó không giống với những thú sưu tầm mọi người vẫn chơi như tem, sách, đồ cổ, lan đột biến, xe máy xe đạp, ô tô…
Từ lúc học xong cấp ba, Thảo Trường thi đỗ vào một khoa biên tập xuất bản. Cuộc đời có vẻ rất thuận lợi với ông, vì sự kiên nhẫn thi mấy năm liền, quay cóp bài và thiếu chỉ tiêu đã đưa ông vào đại học. Nhưng ông cũng chỉ học hai năm rồi bỏ học về làm cho công ti của một người chú. Công ti này sản xuất bao bì. Ở đây ông đánh máy và in ấn. Ông say sưa so sánh, đối chiếu, giải mã các bí mật vô cùng trong sự sai sót của các văn bản. Công ti hết việc thì ông đi kiểm tra mã hàng sản phẩm, dù đấy không phải chuyên môn của mình. Nhưng do ông quá chú tâm và cũng xuất sắc, người chú hay giao cho tham gia kiểm tra lỗi sai sản phẩm. Mỗi năm ông phát hiện ra hàng trăm lỗi lớn nhỏ. Tất nhiên, ông làm tất cả mọi thứ trong sự thương hại của mọi người, cho rằng ông ngu si nên tốt nhất cho làm mấy việc đơn giản, máy móc thì hơn.
Bước ngoặt cuộc đời hay trò hề của mọi người xảy đến khi ông phát hiện ra một vỏ lon trà bí đao vứt ở vỉa hè, bị in hoa dòng chữ “THÀNH PHẦN”, khác với tất cả các vỏ lon cùng lứa với nó. Chuyện ấy làm ông kinh động. Ông bỏ làm ăn, nhà cửa, cầm hết tiền đi lùng cái nơi đã làm ra lon trà bí đao ấy. Có thật nhiều câu chuyện phía sau các quá trình sản xuất, nhượng quyền thương hiệu, dẫn đến việc một nhà máy nước tư nhân trông rất tầm thường ở ngoại ô chính là nơi đã sản sinh ra dòng sản phẩm ấy. Chính người phụ trách cũng bất ngờ vì sản phẩm in chệch của mình. Nhưng họ nghĩ rằng ông là bọn nhà báo đi bóc mẽ doanh nghiệp, nên tìm mọi cách xua đi. Nhưng dường như ông đã có được câu trả lời cần thiết. Ông đi lùng tất cả những sản phẩm in sai đó bằng việc bán căn nhà bố mẹ để lại và chuyển ra ở trọ. Ông nhanh gấp mười lần một người bình thường trong việc nhận ra những nhãn hàng, những món đồ sai lệch. Thế nên, các nỗ lực của ông không uổng. Đời lên hương. Nơi ở trọ của ông to dần lên cho đến khi hiểu rằng phải mua một căn hộ lớn để chứa các bộ sưu tầm. Nhưng trước khi việc đó diễn ra, thế giới của ông đã thành hình: nhờ Internet phủ sóng, ông biết khắp nơi trên thế giới này có những nhà sưu tầm như mình. Ông bán đi bộ vỏ hộp kẹo bị in với phông chữ khác biệt và một vài món độc đáo khác. Lần trúng đậm nhất là một trăm nghìn đô la cho một giao dịch, ông lên báo trả lời phỏng vấn, sau đó mua được nhà.
Cho đến ngày chẳng hiểu sao ông bán hết bộ sưu tập đi. Bán luôn cả bộ sưu tầm Unilevers độc đáo bậc nhất của mình cho một cao thủ về món đó. Rồi gặp tôi trên chuyến taxi định mệnh…
*
* *
Khi đã tạm hiểu bản chất của nghề sưu tầm tôi quyết định thuê nhà ra ngoại ô thành phố cho rộng rãi, tiết kiệm. Ngày ngày, lang thang các siêu thị, tỉ mẩn xem từng hộp cá, hộp thịt, lọ mĩ phẩm, chai dầu gội, lọ nước hoa… Cứ thấy hộp nào nghi có hình lạ là mua về, dùng tống dùng tháo hoặc đổ đồ ở trong đi để lấy hộp. Cạnh đó, lang thang các hàng đồng nát sắt vụn cầu may. Cho đến ngày tôi thấy ở hàng sữa có một biểu tượng Unilevers kì lạ hơn biểu tượng ở những hộp sữa khác bên cạnh. Tôi sững sờ, cầm hộp sữa tay run run như sợ ai cướp mất. Phải nó đây không, cái hình vẽ thứ hai mươi bảy huyền thoại, mơ ước của giới thợ săn. Nếu đúng nó, thật sự nghiệp sưu tầm của tôi bước sang một trang mới, ngạo nghễ bước lên đỉnh cao nhất của Unilevers. Giờ việc cần nhất là mua ngay hộp sữa và đi tìm người khách nọ nhờ ông ta giám định.
Mất hơn ngày lang thang ở ngõ Thanh Hương, nhờ vào cái ảnh chụp card visit vẫn còn lưu trên icloud, tôi mới tìm được địa chỉ của ông ấy. Một căn hộ bẩn thỉu tăm tối, ông nằm trên một đống giẻ rách. Một bên cơ mặt không còn cử động được. Tôi nâng đầu ông dậy và soi cho ông xem biểu tượng.
“Cái này không phải… Đấy là in lỗi hình tế bào AND… không phải là hình cái tem. Ta từng có cái này rồi…”. Mặt ông giống như chiếc mặt nạ làm bằng men rạn, mắt trợn trừng, đài trán móp lại, nhìn tôi cười trong sự thỏa mãn:
“Chú mày có biết mình vừa làm việc gì không?”
Tôi lắc đầu.
“Chú mày đã trở thành món mới nhất trong bộ sưu tầm vĩ đại nhất của ta, bộ sưu tầm các nhà sưu tầm của Unilevers…”
Ông cười bắn cả nước bọt vào người tôi. Tôi buông ông xuống. Nhưng bỗng bằng một sức mạnh kinh người, ông ghì chặt cổ tôi, nghiến răng:
“ Vĩ đại nhất… hiểu không… vĩ đại nhất…”
Tôi kinh hãi chạy về phía cửa…
Mãi sau này, khi trò chơi sưu tầm kết thúc, tôi thành người thua cuộc, mới hiểu hình vẽ thứ hai mươi bảy không phải cái tem. Nó là một khoảng trống. Người ta không hề in thiếu cái gì hết vì nó là một khoảng trống, nó chính là cái hình bị in đảo lộn và dày chi chít khó hiểu trên lọ dầu của vợ tôi. Nó đã xóa tan cuộc đời các nhà sưu tầm, như tôi…
Tháng 4/2020
Đ.A
VNQD