. HÀ NGUYÊN HUYẾN
Mẹ tôi kể lại rằng: Thuở còn thiếu nữ, bắt đầu từ tháng tám âm lịch trai gái trong vùng vào những đêm trăng thường tụ tập ở cầu Cam Lâm (xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Đây là cây cầu bắc qua sông Tích vào làng Cam Lâm, nơi có lăng Ngô Quyền và đền Phùng Hưng. Cầu mái lợp ngói ri thượng gia, hạ kiều, chân cầu là những cột lim được đóng xuống lòng sông. Mặt cầu lát ván, hai bên có bao lơn để ngồi chơi… Vào mùa trăng nam thanh, nữ tú chia hai phe đóng ở hai đầu cầu hát trống quân. Mỗi bên cầu được đào một cái hố nhỏ dài khoảng 80cm rộng 30cm, sâu chừng 1m. Dưới lòng hố đổ gần đầy vỏ ốc nhồi, ốc nứa. Trên miệng hố căng một đoạn dây song. Người cầm cái đám hát gõ vào dây song lấy nhịp… Chỉ có vậy thôi mà đôi bên hát thâu đêm. Càng về khuya, trăng càng sáng, không gian càng thêm vắng lặng. Vỏ ốc dưới hố như cái hộp cộng hưởng làm nền cho tiếng hát bay xa, xa mãi. Biết bao nhiêu đôi lứa đã nên vợ nên chồng qua những mùa trăng.
Mẹ tôi về làm dâu năm 17 tuổi. Nhà tôi bao đời nay nhiều thế hệ làm ruộng “một mùa” bởi toàn ruộng giộc. Giộc là những chân ruộng thấp nằm giữa hai lũng đồi. Mẹ tôi bảo hình như số phận mình gắn với dòng sông Tích. Vào mùa lũ nước sông Tích dâng lên ngập tràn những cánh giộc không thế cấy cày. Thông thường phải sang tháng 7 hết lũ mới cấy lúa mùa. Và vì là chân ruộng ngập nước quanh năm nên đất oi ỉ, đóng phèn… dẫu có cấy lúa cũng không tốt lắm. Bưng bát cơm gạo sọc, gạo sòi đỏ như hoa khế mà thấy thèm chân ruộng đồng vàn (đồng bằng) cấy lúa dự, lúa dí cơm vừa dẻo, vừa trắng.
Song, trời không lấy hết của ai bao giờ, năm nào trời cũng trả cho nhà tôi vụ cá. Số là thế này, vào mùa mưa, lũ sông Tích dâng lên biến làng xóm thành những chòm xanh trong mênh mông trời nước. Khi nước chơm chớm rút, trai tráng trong nhà mang tre ra đóng cọc, đan đăng chắn ngang các cửa giộc, chỗ ăn thông với sông. Ngày ngày chỉ việc canh chừng không cho đăng bị đổ, bị bục. Cứ như thế cho đến lúc nước rút hết. Có năm mẹ tôi quảy mấy chục gánh cá về nhà...
Cứ thế dòng sông đi vào đời sống. Tôi lớn lên sông Tích như thế đã bao đời. Rằm tháng chín, sau khi tục đánh cá thờ dâng Đức Thánh Tản ở Đền Và kết thúc cũng là lúc hội đánh cá của các làng ven sông bắt đầu. Dòng sông vẫn thế, mỗi năm một lần dâng nước trong nỗi đánh ghen truyền kiếp Sơn Tinh - Thủy Tinh...
Nhưng chiến tranh giặc dã đã làm mất đi quá nhiều điều trong đời sống. Với tôi đó là sự thiếu vắng những cây cầu. Năm 1947, lệnh tiêu thổ kháng chiến đã xóa sổ hầu hết những cây cầu bắc qua sông Tích để ngăn bước quân thù. Sau đó, do nhu cầu cuộc sống, những cây cầu xây, cầu bê tông được thay thế, mở rộng và nâng tải trọng thỏa mãn nhu cầu giao thông. Cho đến nay trên dòng sông Tích hầu như không còn một cây cầu gỗ nào, nhất là kiểu thượng gia, hạ kiều nữa…
*
* *
Khi xưa, tôi ra Hà Nội học, cái đầu tiên tôi nhớ là dòng sông Tích đoạn chảy qua làng. Tôi ngẩn ngơ trước ồn ào phố thị chen chúc bánh xe lăn. Tôi tự hỏi lòng mình, trong dòng người đông đúc kia có ai mang một nỗi niềm như thế. Tôi lạc trong những ô bàn cờ phố cổ với nỗi niềm về một dòng sông. Bỗng một tiếng nói nhỏ nhẹ cất lên gọi đúng tên mình: “Cậu Hà, cậu đi đâu ra đây? Mời cậu… xơi điếu thuốc”. Bà lấy trong cái hộp kính nhỏ bao thuốc “ba số 5”. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy loại thuốc này, ở làng tôi chỉ nghe những người sành điệu nói đến. Tôi định cầm một điếu nhưng chẳng hiểu sao lại trả lời: “Cháu không biết hút thuốc ạ!” Tôi đã gặp một người làng trên phố Đồng Xuân - Hà Nội, lòng tôi ấm lại trong một buổi sáng đầu thu chơm chớm lạnh.
Đó là bà Ba Cừ. Ba Cừ là tên chồng, tên bà là gì tôi và có lẽ cả làng ít ai biết. Xưa là thế, những người phụ nữ sau khi lấy chồng là mất tên mình, cả đời phải gọi theo tên chồng, tên con, tên cháu. Ông Ba Cừ là một chi trong dòng nhà cụ Tuần phủ Phan Kế Tiến - thân phụ của cụ Phan Kế Toại. Dân làng Mông Phụ bảo: Cả đời ông Ba Cừ không có nghề gì ngoài đam mê nuôi chó Tây và thổi ống xì đùng. Dân làng kể: Ông Ba Cừ đi ăn cỗ mà chẳng ăn uống gì, chỉ nhăm nhăm đến các mâm để… nhặt xương về cho chó. Tôi lớn lên không thấy ông nuôi chó nữa nhưng thổi ống xì đùng thì tôi đã được chứng kiến.
Xì đùng là một ống gỗ lim dài khoảng 2m. Người thợ lấy hai mảnh gỗ tạo ra phía bên trong hai nửa đường rãnh tròn rồi gắn lại bằng sơn ta. Bên trong xì đùng lúc này là một ống tròn hoàn hảo. Sau đó người thợ bào nhẵn bên ngoài, nhiều ống xì đùng còn được nạm bạc trắng hay đồng đỏ rất đẹp mắt. Người chơi xì đúng lấy đất sét luyện kĩ rồi viên lại như viên bi. Viên bi này để vào đầu ống xí đùng vừa khít rồi dùng miệng thổi đi. Chỉ nghe thấy một tiếng phộc mà con chim đậu ở chót vót cây xoan dính đạn rơi xuống đất.
Trong kí ức tôi bà Ba Cừ là một người phụ nữ yếu đuối, hình như bà mắc một chứng bệnh kinh niên gì về xương khớp nên cả đời bà phải gắn với... rắn. Bằng chứng là đám mục đồng hay bán rắn cho bà, rắn nào cũng được và còn sống thì càng tốt. Nghe nói, bà lấy tiết rắn pha rượu uống, còn thịt để ăn. Thế là từ đấy chúng tôi cứ thả dọc hai bờ sông Tích đào rắn. Đây là môi trường lí tưởng cho rắn sống trâu sinh sống. Loài rắn này to và dài nhưng xương nhiều, thịt mỏng nên ít bị dân làng săn bắt. Song, với bà Ba Cừ thì rất quý, hình như loài rắn này làm thuốc tốt hơn các loài rắn khác…
Tôi nhìn bà Ba Cừ thấy có vẻ yếu hơn hồi ở làng, vẫn dáng cao gầy, da mai mái xanh, hàm răng đen nhưng nhức và đều tăm tắp. Tôi định hỏi về việc bà có còn ăn thịt rắn, thì bà lại bảo: “Cậu lớn quá rồi, có còn ra sông Tích nghịch nữa không?” Lần đầu tiên xa nhà, lại gặp một người làng giữa lòng Hà Nội. Một người làng hỏi một câu vô tình nhắc đến nỗi niềm tôi đang thổn thức. Thế là nỗi nhớ làng, nhớ dòng sông cứ dâng lên ào ạt.
Cuối tuần tôi về quê thì được biết, hai ông bà Ba Cừ đã già, đành theo cậu Thọ bán ngôi nhà ngói ở quê ra phố đã vài năm nay. Nghe nói ở Hà Nội chật chội lắm, nhà bà ở một căn gác nào đó trên phố Đồng Xuân. Nhà chật đến nỗi sáng nào bà cũng phải xuống phố với một hộp thuốc lá mà việc mua bán là chuyện phụ. Hai ông bà chỉ có một người con trai, cả làng tôi gọi là cậu Thọ. Cậu Thọ là cách dân làng Mông Phụ gọi theo dòng dõi nhà quan tuần phủ. Cậu Thọ là một người sống đàng hoàng, tử tế. Lại là người tài hoa và đào hoa nhưng không có nghề nghiệp gì ổn định. Cậu Thọ ít hơn bố tôi vài tuổi nên tôi gọi là chú. Tôi lớn lên chỉ nghe dân làng kể lại những thú chơi bời như thả diều, câu cá và những mối tình phiêu lãng mà chú Thọ lưu lại trên mảnh đất làng.
Thế rồi một hôm chú Thọ đột ngột về, vào nhà tôi. Tiếng chú vang lên rất sang ngoài cổng: “Cháu Hà có nhà không, đọc báo thấy mày viết về sông Tích mà nhớ quá nên chú phải về”. Thì ra là vậy, đúng là nỗi niềm về dòng sông đã thúc bách tôi cầm bút, tôi đã viết về dòng sông, đó cũng là những dòng đầu tiên của đời tôi. Tôi vô cùng sung sướng với ý nghĩ: Tôi đã làm xúc động một người làng và dĩ nhiên chú Thọ là người cùng chia sẻ.
Trước khi đi chú Thọ kể: Chú đi khỏi làng cũng là một đêm trăng trong mùa nước, nước dòng sông Tích dâng lên mênh mông và trăng cứ ngàn ngạt sáng. Chú nằm trên cái sạp vó bè của một người làng, dưới lưng chú lóc bóc tiếng cá quẫy, rồi tiếng vó bè kẽo kẹt, những con cá trong lưới lấp lánh vảy bạc. Bao nhiêu năm nay lầm lụi kiếm sống, đôi lúc chỉ nhớ dòng sông quê nhà. Cháu ạ, các cụ đã cao tuổi, các em còn nhỏ… Thư thư chú về, thả một cái vó bè ở Đầu Trâu (một địa điểm trên dòng sông Tích của làng Mông Phụ).
Lúc đó, tôi mong cho mơ ước của chú thành hiện thực. Tôi nhìn dáng chú ra khỏi nhà rồi hút ở đầu con ngỏ hẹp mà thấy gánh mưu sinh đè nặng lên mỗi kiếp người...
*
* *
Cầu Cam Lâm, Cầu Trò (chắc là “trò” hát đối, hát ví ở xã Gia Hòa), cầu Ngo ở Tích Giang, huyện Phúc Thọ đã bị phá năm 1947 theo lệnh tiêu thổ kháng chiến. Chiến tranh làm tiếng hát vào những đêm trăng cũng dần mai một. Đã biết bao đêm tôi thẫn thờ ngồi trước dòng sông lững lờ nước chảy. Tôi mơ về tiếng hát của trai gái một thời, trong đó có mẹ tôi. Mẹ tôi bảo: Xuôi theo dòng sông, còn một nơi hát đám. Đám hát này không bao giờ mất vì đó là tục hát thờ. Mẹ đã một lần may mắn được dự…
Tôi đã tìm về đây. Đó là xã Liệp Tuyết (huyện Quốc Oai) với tục hát Dô. Hát Dô được sinh ra và lưu truyền trong dân cư của xã Liệp Tuyết (cũ). Xưa kia đây là đất Lạp Hạ (còn gọi là kẻ Xếp) thuộc tổng Liệp Mai, huyện An Sơn, phủ Quốc Uy, trấn Sơn Tây. Hát Dô ở đền Khánh Xuân. Đền tọa lạc trên một gò đất rộng thôn Đại Phu, vị trí trung tâm xã Liệp Tuyết, từ xa xưa chỉ có phường hát của 6 thôn: Đại Phu, Vĩnh Phúc, Bái Nội, Bái Ngoại, Thông Đạt và Đồng Sơn.
Liệp Tuyết cũng như bao làng quê ven sông Tích đều bị nước dòng sông mùa lũ nhấn chìm. Làng tôi cũng ngập nhưng chẳng là gì nếu so với Liệp Tuyết trũng thấp. Liệp Tuyết không chỉ có nước sông Tích mà còn là “nước khách” từ ba bên bốn bề dồn xuống. Trong những tháng ngày này đồng đất Liệp Tuyết mênh mông như biển. Việc đi lại giao lưu với bên ngoài đều phải dùng thuyền. Ấn tượng về lũ lụt còn trong những câu ca dao:
Cơm ăn mỗi bữa mỗi mo
Lấy chồng Liệp Tuyết chỉ lo lội đìa
Tục truyền rằng: Có một lần Thánh Tản qua chơi Lạp Hạ, thấy dân tình cần cù nhân hậu nhưng cuộc sống gian khổ vì nghèo khó, bèn dạy cho dân biết chọn hạt giống và cách làm ruộng. Sau đó ngài tiếp tục viễn du và hẹn ngày trở lại. Song, dân làng Lạp Hạ mong mãi không thấy ân nhân… 36 năm sau Ngài mới quay trở lại. Thánh Tản thấy dân làng khấm khá, Ngài bèn tập họp trai gái lại dạy múa hát, mừng dân no ấm được mùa. Từ đó dân thôn xây dựng đền thờ Thánh Tản và cứ 36 năm lại mở hội hát thờ để ca tụng công đức của Ngài.
Tập quán này một phần tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn sùng thần linh theo tôn giáo bản địa, một phần đáp ứng khát vọng của con người trong chinh phục tự nhiên để tạo lập cuộc sống bình yên no đủ, mà hình ảnh siêu nhiên Tản Viên Sơn Thánh là một thần tượng. Phần khác cũng là tâm lí phổ biến muốn thiêng hóa thành quả ấy để nó có thêm sự lưu truyền. Bởi vậy, sau khi lập đền, dạy dân múa hát, Thánh Tản ban lời nguyền: Hát Dô chỉ được hát chính thức ở đền Khánh Xuân trong những ngày lễ hội. Sau đó các bản sao bài hát đều phải hóa, chỉ có bản chính được lưu giữ trong đền. Thường ngày, ai lỡ mồm hát sẽ bị câm ngay.
Trải bao biến động thăng trầm tục hát Dô không còn nữa. Dòng sông Tích nhờ vào việc xây dựng các hồ như Suối Hai, Xuân Khanh, Đồng Mô… nên đã khống chế được lũ lụt nhưng nạn ô nhiễm đã tiêu diệt dòng sông. Tự nhiên bị biến đổi, bao nhiêu đổi thay là một hệ lụy tất yếu. Song, trong tâm tưởng người dân Xứ Đoài vẫn còn một dòng sông - một dòng sông văn hóa.
*
* *
Sông Tích chảy qua 7 huyện: Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức. Khởi nguồn là Ba Vì, kết thúc là Chương Mỹ (ngã ba cầu Tân Trượng trên Quốc lộ 6 là nơi sông Tích hợp lưu với sông Bùi). Toàn lưu vực dòng chảy là 110km, diện tích lưu vực là 1330km2… Hầu hết địa bàn nơi dòng sông đi qua là địa hình bán sơn địa nên dòng sông ngoằn ngoèo như một “nắm lòng cò”.
Do sản xuất nông nghiệp thủa sơ khai đầy bất trắc cho nên hình tượng Đức Thánh Tản là Đức Thánh trị thủy với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh từ buổi sơ khai. Trải năm tháng thời gian, tính cố kết trong các làng quê ngày càng trở nên bền vững, hình tượng Đức Thánh Tản như chỗ dựa tinh thần vững chắc để các cộng đồng dân cư có một niềm tin khi khoa học chưa phát triển. Trên tinh thần ấy có thể nói Xứ Đoài là nơi khởi nguyên của các làng quê Việt mà sản xuất chính là canh tác lúa nước.
Mãi cho đến sau này, khi văn hóa phương Bắc tràn xuống phương Nam thì sông Hồng vô hình trung trở thành một cái trục phân chia mang tính địa khu vực. Với các địa phương như ở Bắc Giang, Bắc Ninh vì liền đường nên sự ảnh hưởng tính Đông Bắc Á tương đối rõ rệt. Sự ảnh hưởng ấy có thể kể ra như Bắc Ninh, Bắc Giang là địa bàn mà đạo Phật du nhập vào sớm nhất. Bên cạnh đó là những nghề như làm vàng mã, làm pháo, làm giấy…
Ngược lại, bên hữu ngạn sông Hồng các làng quê Việt càng củng cố một cách mạnh mẽ tính cố kết để chống lại sự đồng hóa. Bằng chứng là hiện nay, Xứ Đoài vẫn là nơi bảo lưu văn hóa bản địa (sơ khai) bền vững nhất. Làng Đường Lâm là một trong những hệ thống làng của Xứ Đoài được công nhận là làng cổ với đặc trưng tiêu biểu là canh tác lúa nước - đại diện duy nhất cho đặc trưng Đông Nam Á cho đến tận bây giờ…
H.N.H
VNQD