. Nguyễn Thanh Tú
Có cả một hệ thống biểu trưng rất phong phú trong ngôn ngữ tiếng Việt. Những biểu trưng này là những tín hiệu thẩm mỹ mà càng khám phá người ta càng nhận ra những vẻ đẹp mới. Sân đình, bến nước, cây đa… là những mô típ quen thuộc nhưng đặt trong những văn cảnh khác nhau chúng lại sáng lên những ý nghĩa mới. Chữ “xuân” đã trở thành một biểu trưng của người Việt, vượt ra khỏi nghĩa chỉ thời gian (Xuân bất tái lai…) để chỉ niềm vui, ước mong, hạnh phúc, niềm tin, tuổi trẻ (Có nam có nữ mới nên xuân…). Thơ Bác Hồ nhiều “xuân”, ngoài chỉ thời gian như “Xuân này kháng chiến đã năm xuân/ Nhiều xuân kháng chiến càng gần thành công”(Thơ Chúc Tết 1951) còn mang nhiều ý nghĩa sinh động khác.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể Bác Hồ rất thích hoa và thường hay kể chuyện ở Nga cũng như ở các nước Âu Mỹ, “người ta dùng máy bay chở các thứ hoa ở xa về để trang điểm đời sống hàng ngày ở các đô thị lớn” [1].
Điểm đặc sắc trong quan niệm cái đẹp của Hồ Chí Minh là cái đẹp tinh khiết
Hồ Chí Minh kế thừa cách diễn đạt của thơ thiền, dĩ nhiên để nói về quan niệm biện chứng của mình. Với một trực giác nghệ thuật kiệt xuất của tâm hồn nhạy cảm với nỗi đau, nỗi “bất bình”, nhà thơ còn “nghe” thấy cả tiếng của sự “vô tình”, trừu tượng. Như lời giãi bày của một bông hoa. Đã có nhiều nghiên cứu phân tích bài Vãn cảnh để tìm lý tưởng thẩm mỹ của chủ thể:
“Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình
Hoa hương thấu nhập lung môn lý
Hướng tại lung nhân tố bất bình”
(Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình).
Chữ “hựu” (lại) đã tạo ra hình thức mâu thuẫn tương phản đặc sắc của thi phẩm, đây cũng là cái bản lề để mở ra thế giới tư tưởng mỹ học của thi nhân. Có tương phản không gian: trong tù và ngoài tù; tương phản hiện tượng: hoa hồng nở/ hoa hồng rụng. Hai câu đầu là quy luật khách quan hoa nở hoa tàn. Khó hiểu ở hai chữ “vô tình” (như nhiều người đặt ra câu hỏi: ai vô tình?). Tạo hóa hay con người nói chung, có thể cả hai nhưng dứt khoát không phải “lung nhân”. Vì “lung nhân” là bạn “tri âm”, có vậy “hương hoa” mới “tố bất bình” để chia sẻ, giãi bày. Hoa là biểu trưng cho cái đẹp. Mà cái đẹp thời nào cũng vậy, luôn mong manh “Hoa thường héo, cỏ thường tươi”. Mà cái đẹp luôn là giá trị, cũng không vượt được quy luật sinh diệt khách quan. Thế mà tại sao con người và tạo hóa lại “vô tình”? Mà khi đã “vô tình” thì rất gần với “vô tâm”! Lời “hương hoa” là lời trách nhẹ nhàng: đừng vô tình với cái đẹp, đừng vô tình trước sự được mất, trước sự khai mở và kết thúc của một sự vật, hiện tượng, hơn nữa là của một giá trị. Không có sự mẫn cảm của một thiên tài nghệ thuật không thể “nghe” được như vậy. Sâu sắc, tinh tế và nhân ái biết bao!
Ở hầu hết mọi bài trong Nhật ký, như nói ở trên, chủ thể luôn có xu hướng vươn tới một vị thế khác, tự do và sang trọng. Nhưng ở bài này chủ thể lại trở về vị thế thực “lung nhân” trong “lung lý”? Hay nhà thơ muốn nói tới một quy luật này: khi tiếp nhận sự chia sẻ của tri âm thì con người phải ở vị thế thực để thành thực! Nhưng “hoa hương” (và bạn đọc) thì rất hiểu “lung nhân” chỉ là tên gọi, còn đích thực trong tâm hồn ấy vẫn là “thi nhân”, vì chỉ có thi nhân mới hiểu và cảm thông cho cái đẹp. Bài thơ ngắn mà tầng lớp ý nghĩa, nhưng ai cũng dễ đồng tình với những nét nghĩa này: phải biết yêu mến trân trọng cái đẹp; phải thấu hiểu mới thấu cảm cái đẹp, cũng vậy, có thấu hiểu người mới thấu cảm được lòng người! Để được như vậy, trước hết con người phải biết lắng nghe những điều rất nhỏ!!!
Chúng tôi xin chép bài thơ Mậu Thân xuân tiết của Hồ Chí Minh được Người làm tại Bắc Kinh ngày 14/4/1968:
“Tứ nguyệt bách hoa khai mãn viên
Hồng hồng tử tử hỗ tranh nghiên
Bạch điểu tóc ngư hồ lý khứ
Hoàng oanh phi thượng thiên
Thiên thượng nhàn vân lai hựu khứ
Mang bả Nam phương tiệp báo truyền”
(Tiết tháng tư trăm loài hoa nở đầy vườn
Đỏ đỏ, tía tía hoa đua nhau khoe vẻ tươi
Con chim trắng sà xuống hồ để bắt cá
Chim hoàng oanh lại bay thẳng lên trời
Trên trời những áng mây thong thả bay đến bay đi
Lòng rộn lên tin thắng trận ở miền Nam báo đến)
Bỏ câu cuối bài thơ này rồi đối chiếu với thơ Thiền đời Lý, nhất là thơ của Viên Chiếu thiền sư dễ thấy trong bài thơ này của Hồ Chí Minh có âm vang của thơ Thiền, về mặt thể tài, thi liệu, tình thơ, ý thơ.
Thơ thiền hay mượn hoa làm một hình tượng nghệ thuật, ngoài chức năng miêu tả thiên nhiên, ngoài một biểu tượng cho cái đẹp còn là biểu tượng cho cõi Niết bàn, nơi của thiền tâm thoát kiếp luân hồi. Thơ Hồ Chí Minh, có bài như thoát tục để vươn tới một thế giới “tiên”:
“Hai mươi tư tháng sáu
Lên ngọn núi này chơi
Ngẩng đầu mặt trời đỏ
Bên suối: một nhành mai” (Lên núi).
Theo GS Phan Ngọc, “hai câu đầu nôm na để dẫn tới hai câu sau bất tử: một tứ thơ cách mạng hoà với một tứ thơ Phật giáo. Ngạn là cái bờ suối cụ thể nhưng cũng là cái bờ bên kia, cái bờ đạt đến sự giác ngộ. Mai là cây mai cụ thể nhưng cũng là kẻ thoát kiếp luân hồi” [2]. Câu cuối bản phiên âm Hán Việt trong bài Thướng sơn: “Đối ngạn nhất chi mai” làm chúng ta liên tưởng đến câu “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Mãn Giác thiền sư và thấy cách hiểu của Phan Ngọc là có lý.
Và có rất nhiều câu trong trẻo tinh khiết lạ thường:
“Khán thư sơn điểu thê song hãn
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì”
(Xem sách chim rừng vào cửa đậu
Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi) -Tặng Bùi Công.
“Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân”
(Đường về chợt gặp cây mai núi
Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân ) - Tầm hữu vị ngộ.
Trong con người Hồ Chí Minh có bóng dáng của vị thiền sư thoát tục nhưng cũng lại có tâm hồn của một lão nông thuần hậu yêu thiên nhiên, yêu con người: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào...Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi…” [3].
Trong bài Tầm hữu vị ngộ có câu cuối:
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân
(Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân).
Bài thơ được Hồ Chí Minh viết vào năm 1954 gửi đồng chí Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam sau khi Người tìm đến thăm mà không gặp. Trong Kinh thi có tích “hoàng hoa” là danh từ chỉ nơi (xa) người đi sứ đến nhậm chức. Chinh phụ ngâm cũng lấy tích này:
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dãi dầu.
Như vậy Hồ Chí Minh đã chơi chữ “hoàng hoa” vừa là danh từ chỉ hoa (hoa vàng) vừa là danh từ chỉ nơi chốn (nơi xa xôi). Câu thơ vừa tả cái đẹp của hoa vừa tả cái tình (tâm trạng) của người. Thật rất đúng với hoàn cảnh của Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc sang giúp Việt Nam đánh Pháp.
Đêm nguyên tiêu năm 1948 Bác Hồ có bài thơ Nguyên tiêu nổi tiếng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”
Trong ba chữ xuân ở câu hai thì hai chữ xuân thủy vừa có nghĩa nước sông mùa xuân vừa là danh từ chỉ người, tức nhà thơ Xuân Thủy. Đêm đó, sau khi cùng các đồng chí, trong đó có đồng chí Xuân Thủy (đang phụ trách báo Cứu quốc) bàn việc kháng chiến chống Pháp, tức cảnh, Người làm bài thơ này, rất lãng mạn cổ điển lại rất hiện thực, dí dỏm, thân mật, chân tình.
Hai câu cuối trong bài Cảnh rừng Việt Bắc rất đáng chú ý: “Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xưa, hạc cũ với xuân này”[4]. Bài thơ làm năm 1947 giữa lúc cuộc kháng chiến của ta bộn bề khó khăn nhưng niềm tin của Người thật khoẻ khoắn, mãnh liệt “Kháng chiến thành công”. Người như tự nhủ với chính mình, trở về với đề tài xưa “trăng xưa, hạc cũ”. Đề tài cổ điển nhưng nội dung phải mới, phải hiện đại, mang tinh thần của “xuân này”.
NTT
[1]Nguyễn Thị Kiều Anh- Nguyễn Thị Tuyết Minh (Tuyển chọn và giới thiệu)- Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp. Nxb Công an Nhân dân, 2008. tr 613.
[2]Báo Văn nghệ, số 34, ngày 25/8/1990
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996-2000, tập 4, tr 161.
[4]Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996-2000, tập 5, tr 335.
VNQD