. Nguyễn Thanh
1.Tư tưởng mỹ học Phật giáo.
Văn hoá phương Đông đã thấm vào tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung từ tuổi ấu thơ vì cậu may mắn được sinh ra trong một gia đình Nho học, khoa bảng, nền nếp. Truyền thống giáo dục của người Việt là “dạy con từ thuở còn thơ…”, thế cho nên văn hoá phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc đã được Hồ Chí Minh tiếp thu từ rất sớm. Trong tác phẩm Hồ Chí Minh có sự tinh tế của cái đẹp hài hòa phương Đông, có cái châm biếm thâm thúy Nho gia, có chất triết lý của ngụ ngôn triết học Trang Tử, Lão Tử, Mạnh Tử…có vẻ đẹp từ bi thoát tục của đạo Phật, vẻ đẹp hàm súc thơ Đường... Thơ Hồ Chí Minh có xu hướng vươn tới một thế giới “tiên”: “Hai mươi tư tháng sáu/ Lên ngọn núi này chơi/ Ngẩng đầu mặt trời đỏ/ Bên suối: một nhành mai” (Lên núi). Theo Phan Ngọc, “hai câu đầu nôm na để dẫn tới hai câu sau bất tử: một tứ thơ cách mạng hoà với một tứ thơ Phật giáo. Ngạn là cái bờ suối cụ thể nhưng cũng là cái bờ bên kia, cái bờ đạt đến sự giác ngộ. Mai là cây mai cụ thể nhưng cũng là kẻ thoát kiếp luân hồi” (Báo Văn nghệ, số 34, ngày 25/8/1990).
Đức Phật nói: “Khi tôi thanh tịnh thì tôi thấy thế giới thanh tịnh”. Mỹ học Phật giáo “cảm nhận, miêu tả, thể nghiệm và giải thoát cho cuộc đời. Nó không lý giải các bản thể thẩm mỹ mà cảm nhận, thể nghiệm các quan niệm thẩm mỹ nhân sinh” (Hoàng Thiệu Khang (2017). Mỹ học Phật giáo. Viện nghiên cứu Phật học. 26/12/2017). Nhất là trong các lá thư Người gửi đồng bào Phật tử thì càng cho thấy mạch nguồn văn hóa Phật giáo được tiếp thu rất tinh tế: “Cuối cùng tôi chúc các vị luôn luôn mạnh khoẻ, tinh tiến tu hành, phục vụ chúng sinh, phụng sự Tổ quốc, bảo vệ hoà bình” (Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 8, tr 290, 291). Văn bản có thể coi là sự phối hợp hai phong cách ngôn ngữ, ngôn từ của Phật giáo và ngôn ngữ toàn dân. Có những từ khó hiểu đối với ngôn ngữ toàn dân nhưng lại thân thuộc với ngôn ngữ Phật giáo như “tinh tiến tu hành” vẫn được tác giả sử dụng. Căn cứ vào đối tượng tiếp nhận thì đây lại là sự cần thiết, nếu thay bằng một cụm từ của ngôn ngữ toàn dân có nghĩa tương đương thì màu sắc nhà Phật sẽ bị giảm, người đọc sẽ không tìm thấy con người họ ở trong đó, hiển nhiên tính thuyết phục cũng nhạt.
2. Tư tưởng mỹ học trong văn hóa Trung Quốc.
Khi trưởng thành, trên đường cứu nước, được tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, có điều kiện để đối chiếu, so sánh, Người có những nhận xét, đánh giá rất cao về văn hoá Trung Quốc: “Trung Quốc là một nước vĩ đại, hùng cường và đẹp đẽ. Nền văn hoá lâu đời và ưu tú của Trung Quốc đã có một ảnh hưởng sâu xa ở châu Á và trên thế giới” (Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 8, tr 2. Các trích dẫn trong bài đều trích từ bộ sách này).
Lời than vãn của Bà Trưng Trắc kể về giấc mơ của Khải Định gặp Bà Trưng có nói về “con số chín, con số tận cùng trong những con số chẳng thể chia cũng chẳng thể nhân, mà theo vua Phục Hi thì nó biểu hiện sự suy đốn của một sinh linh được coi như cùng tột (dương cửu)” (Tập 1, tr 78). Trong bản phiên âm tác giả viết giương cửu bằng tiếng Việt. Tiếng Pháp, âm d và đ đọc như nhau nên nếu viết dương cửu thì người Pháp có thể đọc là đương cửu, do vậy viết giương cửu thì gần với âm tiếng Việt hơn. “Dương cửu” là một quẻ trong Kinh dịch biểu hiện mức cao nhất khi người hoặc vật đạt tới, và từ điểm này sẽ tuột xuống dốc. Vua Phục Hi, một ông vua trong thần thoại Trung Quốc cổ, thuỷ tổ của Kinh dịch quan niệm vũ trụ có trời, có đất, người, mặt trăng, mặt trời, ngày đêm, nước lửa, núi sông…nên ông sáng tạo ra “bát quái”, một kiểu chữ đồ hoạ cổ xưa để ghi lại những nhận thức ấy. Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng các biểu tượng của văn hoá Trung Quốc để nói về “số” Khải Định cũng như quẻ Dương cửu kia lên ở mức cao nhất là “vua”, nhưng vì là vua hèn kém nên rồi sẽ tuột xuống thân phận thảm hại đớn hèn.
Cuốn Đường Cách mệnh vận dụng những tục ngữ, ngụ ngôn Trung Quốc và Việt Nam: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành công. Tục ngữ Tàu có câu: "Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức". Sư tử mạnh biết chừng nào, nếu bắt thỏ thì có khó gì, thế mà còn phải dùng hết sức, huống gì làm việc to tát như việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức thì làm sao được.
Lại nhiều người thấy khó thì ngã lòng, không hiểu rằng "nước chảy đá mòn" và "có công mài sắt có ngày nên kim". Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì phải xong” (Tập 2, tr 261). Ý tứ ở đây rất rõ ràng: mọi người phải dùng hết sức mình, quyết chí, đồng tâm hiệp lực vào việc giải phóng gông cùm nô lệ. Riêng hai câu cuối tác giả nhắc mọi người nhớ lại chuyện ngụ ngôn “Ngu Công dời núi” trong văn học cổ Trung Quốc. Cách dùng câu “tục ngữ Tàu” này còn cho thấy tinh thần triệt để và quyết tâm làm bất cứ việc gì dù nhỏ ở nhà cách mạng.
Tháng 9-1950, Bác Hồ đã tặng Liên phân đội thanh niên xung phong 321mấy câu thơ: Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên. Câu chuyện Ngu Công dời núi kể khi có người hỏi một mình Ngu Công thì làm sao xong việc, ông trả lời, đời tôi chưa xong thì đời con tôi, đời con tôi chưa xong thì đến đời cháu tôi. Dân gian coi đấy là bài học về sự quyết chí và kiên trì. Bài thơ của Bác Hồ có mối liên hệ với ý nghĩa câu chuyện trên. Có thể còn có một ý này nữa: Đấy là ngày xưa, lại là chuyện một cụ già, còn ngày nay là thanh niên thì chuyện “đào núi và lấp biển” cũng “quyết chí ắt làm nên”. Bài thơ gián tiếp một sự so sánh, một sự “khích tướng”. Hiểu như vậy là vì căn cứ vào hoàn cảnh bài thơ, đội thanh niên này đang nhận trọng trách bảo vệ cầu Nà Cù (thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn) nằm trên tuyến đường huyết mạch từ thị xã Bắc Cạn đi Cao Bằng, họ phải đào núi làm đường, vá đường, khắc phục sự phá hoại do máy bay địch ném bom và lũ cuốn. Hai câu đầu của bài thơ lại cũng có nguồn gốc từ một tục ngữ Trung Quốc. Trong cuốn Cần kiệm liêm chính (6/ 1949), ở mục Cần, Bác Hồ đã nhắc tới câu tục ngữ này: “Người Tàu có câu: không có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng.Tục ngữ ta có câu: Nước chảy mãi đá cũng mòn. Kiến tha lâu cũng đầy tổ” (Tập 5, tr 632).
Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch có dẫn một châm ngôn Trung Quốc:“Một câu châm ngôn Trung Quốc nói: “Một nhà hoạ sỹ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn khi hiện giữa những đám mây” (NXB Văn học, 1970, tr 51).Cuốn Những mẩu chuyện … cũng được viết theo nguyên tắc vẽ rồng “khi ẩn khi hiện giữa những đám mây”, nghĩa là tái hiện lại cuộc đời hoạt động của Bác nhưng để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc tác giả thỉnh thoảng lại để cho nhân vật “biệt tích”, “mất mối câu chuyện”.
Như vậy câu châm ngôn thâm thuý kia không chỉ dành cho hội hoạ mà còn là nguyên tắc miêu tả của văn chương.
Khổ I bài thơ Trung thu (Nhật ký trong tù): “Trung thu thu nguyệt viên như kính,/ Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân;/ Gia lý đoàn viên ngật thu tiết,/ Bất vong ngục lý ngật sầu nhân”. Theo tác giả Phương Lựu thì bài này chịu ảnh hưởng bởi tứ thơ từ bài dân ca Trung Quốc. Ở miền Giang Nam, đời Nam Tống, khi giặc Mông Nguyên sang xâm lược, dân tình chạy loạn, phiêu dạt, một bài dân ca nói về tình cảnh này ra đời:“Nguyệt tử ung ung chiếu cửu châu/ Kỷ gia hoan lạc, kỷ gia sầu/ Kỷ gia phu phụ đồng la trướng/ Kỷ cá phiêu linh tại nguyệt đầu”. Đến thời nước Trung Hoa kháng Nhật, do tương đồng lịch sử nên bài dân ca sống lại, được lan truyền và phổ nhạc. Thời điểm này Bác Hồ đang hoạt động ở Trung Quốc, bài dân ca làm xúc động trái tim nhạy cảm với cảnh nước mất li biệt ấy nên tứ thơ ấy đã đi vào bài Trung thu một cách tự nhiên (Khơi dòng lý thuyết. NXB Hội Nhà văn, 1997, tr 135).
Bài Tầm hữu vị ngộ có câu cuối: Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân (Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân) được Hồ Chí Minh viết vào năm 1954 gửi đồng chí Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam sau khi Người tìm đến thăm mà không gặp. Trong Kinh thi có tích “hoàng hoa” là danh từ chỉ nơi (xa) người đi sứ đến nhậm chức. Chinh phụ ngâm cũng lấy tích này: Xót người lần lữa ải xa/ Xót người nương chốn hoàng hoa dãi dầu. BácHồ đã chơi chữ “hoàng hoa” vừa là danh từ chỉ hoa (hoa vàng) vừa là danh từ chỉ nơi chốn (nơi xa xôi). Câu thơ vừa tả cái đẹp của hoa vừa tả cái tình (tâm trạng) của người. Thật rất đúng với hoàn cảnh của Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc sang giúp Việt Nam đánh Pháp.
Một câu chuyện ngụ ngôn: có anh chàng nông dân vì muốn cho lúa của mình mau tốt bèn kéo cây lúa cao lên, kết quả là lúa chết. Ngụ ngôn này đã phổ biến ở phương Đông từ rất lâu. Trong những lời biện luận của mình Mạnh Tử đã từng sử dụng để chế giễu những người đi ngược lại quy luật biện chứng. Hồ Chí Minh dùng ngụ ngôn ấy vào mục đích giáo dục tính kiên nhẫn, chịu khó, tránh chủ quan, nóng nảy:“- Nóng nảy là việc gì cũng chủ quan, không điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng, vội vàng, muốn làm cho mau, làm ẩu. Thiếu kiên nhẫn, thiếu tinh thần chịu khó.Như người nông dân nọ: muốn lúa mau cao mau tốt bèn nắm lúa nhổ lên!Làm việc mà nóng nảy, thì nhất định thất bại" (Tập 7, tr 170). Nước ta và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, địa lý nên tác giả lấy hai câu tục ngữ có ý nghĩa giống nhau làm cho “điểm tựa” của mình toàn diện hơn, nét chân lý phổ quát rộng rãi hơn.
Với bút danh C.B, trên báo Nhân dân số 188 ngày 25, 27-5-1954 Bác Hồ viết bài báo Tuyên truyền để giáo dục bản lĩnh cán bộ, nhân dân trước mọi dư luận và nhất là cảnh giác trước mưu đồ “tuyên truyền” của kẻ thù. Bài báo mở đầu bằng một câu chuyện ngụ ngôn Trung Quốc: “Anh Tăng, học trò cụ Khổng, là một người rất đạo đức, được mọi người kính yêu. Một hôm, Tăng đi đốn củi, quá trưa mà chưa về. Một người bà con đến nói với mẹ Tăng: "Nghe nói Tăng vừa phạm tội giết người...". Rồi kết luận: “Không ai hiền lành bằng anh Tăng. Không ai tin tưởng anh Tăng bằng mẹ anh. Thế mà vì người đồn qua, kẻ đồn lại, dù không đúng sự thật, mẹ Tăng cũng đâm ra lo ngại, hoang mang” (Tập 7, tr 283). Tác giả bình luận một câu làm nổi bật chủ đề của ngụ ngôn: “Ảnh hưởng tuyên truyền là như thế”.Hai tác giả Nguyễn Lộc, Nguyễn Mạnh Bính có ghi lại chuyện: “Nữ nghệ sỹ Ái Liên đã kể lại ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc của mình khi nghe những câu thơ ứng khẩu của Bác Hồ, trong một lần đoàn chèo của chị diễn vở Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài. Xem xong, Bác lên sân khấu bắt tay từng người, hỏi mọi người có muốn nghe Bác phát biểu ý kiến không. Bác Hồ đi đi lại lại mấy bước rồi cất tiếng đọc:Một đôi Sơn Bá, Anh Đài/ Chữ tình đáng trọng, chữ tài đáng thương/ Chỉ vì ông già dở dở ương ương...Bác dừng lại chỉ tay vào chị Hồng Liên, người đóng vai Chúc công, bố của Chúc Anh Đài:Làm cho đôi lứa uyên ương không thành. Ngừng đọc, đi đi lại lại, rồi Bác cất cao tiếng hơn, một tay Bác giơ lên:Đánh cho phong kiến tan tành/ Cho bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá sẽ được thành lứa đôi” (Hồ Chí Minh với văn nghệ sỹ…NXB Hội Nhà văn, 2010, tập 2, tr 140, 141).Bác Hồ hiểu sâu sắc Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài một truyền thuyết có từ thời nhà Đông Tấn (317- 420) và vận dụng tài tình vào thực tế.
Đặc biệt Hồ Chí Minh hay dùng những câu chuyện cổ, những tấm gương trong kho tàng văn hoá Trung Quốc để giáo dục cán bộ, nhân dân về đạo đức cách mạng. Bác Hồ nói chuyện về hội hoạ thật thấm thía: “Vẽ rất quan trọng, Bác gần tám mươi tuổi rồi mà Bác còn nhớ hình ảnh ông Tử Lộ đội gạo nuôi mẹ trong sách giáo khoa ngày xưa. Nhân dân ta rất thích tranh vẽ, nhưng có những bức vẽ không ai hiểu gì cả. Hình như mấy chú vẽ cho mình xem chứ không phải vẽ cho quần chúng…” (Tập 12, tr 552). Ít nhất có mấy ý nghĩa sau toát ra từ ví dụ này: Một là, “Nhân dân ta rất thích tranh vẽ”, do vậy “Vẽ rất quan trọng” trong việc tuyên truyền giáo dục. Hai là nhắc nhở mọi người về “đạo hiếu”. Ba là những bức vẽ phải chân thực, giản dị, dễ hiểu, phù hợp với trình độ thưởng thức của người xem.
Đầu tháng 6-1968, Bác Hồ nhắc nhở xuất bản loại sách Người tốt việc tốt: “Chú có biết người xưa đã có những cách giáo dục sâu sắc như thế nào không? Chú còn nhớ những chuyện Nhị thập tứ hiếu không? Bác gần tám mươi tuổi mà vẫn còn nhớ chuyện ông Lão Lai, vợ chồng Quách Cự, chú bé Hán Lục Tích... hiếu thảo với cha mẹ như thế nào…” (Tập 12, tr 558). Đây là bài học cho chúng ta hôm nay về việc “Học tập cách giáo dục của ông cha ta” nhưng phải gắn với hoàn cảnh của thời đại mới. Bác Hồ đã phát triển chữ “hiếu” ở ngày xưa là “chỉ có hiếu với bố mẹ”, còn ngày nay chữ “hiếu”, ngoài nghĩa gốc phải mở rộng thành “trung với nước, hiếu với dân”.
N.T
VNQD