. NGUYỄN THANH HÀ
Khảo sát 166 bài thất ngôn tuyệt cú trong Đường thi trích dịch của Trung tâm nghiên cứu quốc học, Đỗ Bằng Đoàn dịch nghĩa và chú giải; Bùi Khánh Đản dịch vần, chúng tôi thấy có nhiều câu thơ có chữ “khước”:
Khước hận hàm tình yểm thu phiến
(Ngậm ngùi tình cảnh mình, lấy quạt thu che)
Vương Xương Linh – Tây cung thu oán
Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ
(Hán sứ trở về nhờ gửi lời (tâu với vua).
Bạch Cư Dị - Chiêu Quân từ
Chữ “khước”(卻) có nghĩa là lại, trái lại để biểu hiện một sự “tỉnh ngộ” trong quá trình nhận thức của chủ thể trữ tình : theo quy luật nhân quả thì sự vật, hiện tượng sẽ là A, nhưng sự đời oái oăm, trớ trêu, đầy nghịch lý thì không phải vậy (khước) mà lại là B. Chữ “khước” có thể ví như cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng. Đây là một nét cấu tứ của thơ Đường? Phải vậy chăng mà giới nghiên cứu phê bình Trung Quốc khi bàn về Đường thi hay dùng các thuật ngữ của Thiền học: đốn ngộ, bừng ngộ, tỉnh ngộ, (tức khắc) giác ngộ ?! Một mỹ nhân trong Tây cung thu oán của Vương Xương Linh đẹp đến mức hoa phù dung cũng không đẹp bằng, nàng lại sống trong điện Thuỷ toạ mà mỗi khi gió đến mang cả những mùi thơm của châu ngọc. Giàu có, sang trọng và vương giả?! Nhưng (khước) lại không hề có hạnh phúc, nàng ngậm ngùi trong tình cảnh cô đơn cực độ, dưới trăng thu chỉ còn biết lấy quạt thu che để chờ đợi quân vương trong vô vọng.
Cũng là sắc đẹp của giai nhân nhưng trong Đài Tập Linh (nhị thủ) của Trương Hựu lại mang một cái ý mỉa mai kín đáo khác:
“Quắc quốc phu nhân ơn Thánh chúa
Sáng ngày cưỡi ngựa tiến vào cung
Phấn son ngại giảm phần nhan sắc
Kẻ nhạt mày hoa trước Cửu trùng”
Quắc quốc phu nhân là chị ruột Dương Quý Phi, theo sách Thiên Bảo kỷ sự và Minh Hoàng tạp lục, là người có da mịn như hoa anh đào ít khi dùng đến phấn sáp. Khi vua Minh Hoàng vào cung Hoa Thanh chị em Quý Phi đều cưỡi ngựa đeo nhạc vàng đi theo sau. Quắc quốc phu nhân khi vào chầu vua cũng chỉ (khước) kẻ qua lông mày chứ không trang điểm theo đúng nghi lễ. Bài thơ toát lên một ý châm biếm thật kín đáo: “Cung môn” là nơi cung cấm, ai qua cũng phải xuống ngựa( trừ vua), thế mà (khước) “Quắc quốc phu nhân ơn Thánh chúa/ Sáng ngày cưỡi ngựa tiến vào cung” cũng chẳng thèm xuống ngựa. Vào chầu vua cũng chẳng trang điểm tề chỉnh theo nghi lễ. Một tiếng cười kín đáo quất vào mặt vua: háo sắc đến quên mọi nghi lễ quốc gia, thiên vị, nhu nhược; quất vào mặt chị em Quý Phi: ỷ thế nhố nhăng làm bậy coi thường kỷ cương; quất vào cả bộ mặt triều đình: đớn hèn, xu nịnh…Một bài thơ nhưng làm cho người ta thấy sự sắp diệt vong của một triều đại.
Giả sử tước bỏ đi chữ “khước” các bài thơ khó có thể bật ra được những ý tứ sâu sắc như thế.
Hồ Chí Minh đã học tập, kế thừa nét cấu tứ này của thơ Đường, xét ở bề mặt hiển ngôn văn bản, trước hết là cách dùng chữ “khước”.
Đúng với nghĩa của chữ và văn cảnh dùng chữ (11 chữ) mà “khước” chỉ có mặt trong Nhật ký trong tù, ngoài ra chúng tôi chưa tìm được chữ này trong một bài thơ chữ Hán nào của Người:
“Túc Vinh khước sử dư mông nhục,
Cố ý trì diên ngã khứ trình;”
(Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,
Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta;) -Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
“Cao sơn ngộ hổ chung vô dạng,
Bình lộ phùng nhân khước bị giam”.
(Núi cao gặp hổ rút cục vẫn không việc gì,
Đường phẳng gặp người lại bị bắt!)...
Chúng ta dễ nhận ra chữ “khước” của Hồ Chí Minh cũng được dùng như chức năng, hiệu quả nghệ thuật của chữ “khước” trong thơ Đường.
Gần với nghĩa của chữ “khước” này là các chữ “hựu”(又) có nghĩa “lại”; “tài” (才) có nghĩa là “mới”; “hốt”(忽) có nghĩa “bỗng chợt” được xuất hiện nhiều trong Đường thi. Chỉ riêng chữ “hựu” (9 chữ) xét trong 166 bài thất ngôn tuyệt cú trong Đường thi trích dịch:
Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân
(Đương mùa hoa rụng lại gặp ông – Đỗ Phủ - Giang Nam phùng lý quy niên).
Nhất niên hựu quá nhất niên xuân
(Một năm qua, lại hết đi một tuổi trẻ - Thôi Mẫn Đồng - Yến thành Đông Trang)…
Thu tứ của Trương Tịch là tâm trạng của một người đang ở Lạc Dương nhớ nhà, nhớ quê ở nơi xa muôn trùng cách trở. Lạc Dương tức thành Lạc Dương (nay là huyện Lạc Dương tỉnh Hà Nam), thời các nhà Chu, Đông Hán, Nguỵ, Tấn, Nguyên Nguỵ đều đóng đô ở đây nhưng đến đời nhà Đường lại đặt Lạc Dương là Đông Đô. Là cố đô của nhiều triều đại nên có rất nhiều thắng cảnh và di tích, lúc này đang độ thu về, Lạc Dương càng mang vẻ trầm mặc cổ kính càng gợi nên ở người lữ thứ nhớ về cố hương. Nhớ mà chỉ biết gửi tình ý vào thư, con chữ thì làm sao nói cho hết được cái tình nên viết mãi mà chưa hết ý đến nỗi người đưa thư sắp đi mà lại còn mở ra xem (Hành nhân lâm phát hựu khai phong). Bài thơ là cái tình, câu chữ thì khép lại, cái tình thì dư ba.
Người cung nữ trong Cung oán (Đỗ Mục) đang ở tuổi khao khát xuân tình, hôm ấy quá hồi hộp theo Giám cung ra ngoài tưởng rằng sẽ được hưởng ân vua. Nhưng không phải. Giám cung thu chìa khoá bạc rồi lấy khoá vàng khoá lại. Nàng chết lặng trong nỗi oán sầu. Lúc ấy, trăng sáng, hoa rụng, trời lại mờ tối, “Nguyệt minh hoa lạc hựu hoàng hôn”. Nỗi sầu liệu có gửi vào được nơi trăng, nơi cánh hoa tàn, nơi hoàng hôn? Nàng chỉ còn biết chờ đợi trong mòn mỏi thảng thốt “nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”.
Đỗ Phủ nói Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu (Lời thơ chưa kinh động lòng người thì chết chưa yên), có thể chứng minh qua cách dùng các chữ “khước”, “hựu”, “tài”, “hốt”…trong Đường thi.
Ngoài chữ “khước” mà chúng tôi chứng minh ở trên, Nhật ký cũng xuất hiện nhiều “hựu”, “tài”, “hốt”…
Tỉnh thì tài giác ngoạ lung trung
(Khi tỉnh dậy mới biết mình vẫn nằm trong ngục - Ngọ).
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
(Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương - Nạn hữu xuy địch)
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
(Có đi đường mới biết đi đường khó
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác - Tẩu lộ)…
Các chữ “khước”, “tài”, “hốt”, “hựu” có khi hiển ngôn có khi ẩn đi đã tạo ra một hình thức mâu thuẫn, tương phản đặc sắc trong Nhật ký.
Phải trải qua bao vất vả khổ sở đói rét nhọc nhằn trong hoàn cảnh “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” kết hợp với tâm trạng lo lắng, băn khoăn trăn trở cho vận mệnh nước nhà nên có lúc Hồ Chí Minh bị ốm:
“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh
“Nội thương” đất Việt cảnh lầm than
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn ( Ốm nặng).
Hai câu đầu là nguyên nhân gây ra “ốm nặng”, câu thứ nhất là nguyên nhân khách quan, câu thứ hai là nguyên nhân chủ quan. Câu thứ ba là một hiện thực: ở tù đã là một cay đắng, trong tù mắc bệnh thì càng cay đắng bội phần. Có thể coi ba câu đầu là nguyên nhân để dẫn tới một tình cảnh “đáng khóc”. Nhưng chỉ có người tù vĩ đại Hồ Chí Minh mới tạo nên một mâu thuẫn này: Đáng khóc mà ta cứ hát tràn. Chỉ tiếc là bản dịch không lột tả được âm hưởng phẫn uất, dồn nén dữ dội của ba thanh trắc liền nhau ( thống khốc khước) ở bản phiên âm: Bản ưng thống khốc khước cuồng ca. Không phải là một tinh thần lạc quan như có người đã từng nhận định mà là một thái độ phủ nhận hiện thực cay đắng, có tiếng hát nhưng không phải là tiếng hát yêu đời hay hát để cho vui cho quên mà là hát để chế ngự hiện thực, vượt lên hiện thực quá phũ phàng. Tiếng hát đẫm nước mắt!
Đã có nhiều nhà nghiên cứu phân tích bài thơ Vãn cảnh để tìm lý tưởng thẩm mỹ của tác giả:
“Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình
Hoa hương thấu nhập lung môn lý
Hướng tại lung nhân tố bất bình”
(Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình).
Chữ “hựu”, như đã nói ở trên, đã tạo ra hình thức mâu thuẫn tương phản đặc sắc của thi phẩm, đây cũng là cái bản lề để mở ra thế giới tư tưởng mỹ học của thi nhân. Có tương phản không gian: trong tù và ngoài tù; tương phản hiện tượng: hoa hồng nở/ hoa hồng rụng. Hai câu đầu là quy luật khách quan hoa nở hoa tàn. Khó hiểu ở hai chữ “vô tình” (như nhiều người đặt ra câu hỏi: ai vô tình). Tạo hóa hay con người nói chung, có thể cả hai nhưng dứt khoát không phải “lung nhân”. Thậm chí “lung nhân” còn là bạn “tri âm”, có vậy “hương hoa” mới “tố bất bình” để chia sẻ, giãi bày. Hoa luôn là biểu trưng cho cái đẹp. Mà cái đẹp luôn là giá trị, cũng không vượt được quy luật sinh diệt khách quan. Thế mà tại sao con người và tạo hóa lại “vô tình”? Một khi con người đã “vô tình” thì rất gần với “vô tâm”! Lời “hương hoa” là lời trách nhẹ nhàng: đừng vô tình với cái đẹp, đừng vô tình trước sự được mất, trước sự khai mở và kết thúc của một sự vật, hiện tượng, hơn nữa là của một giá trị! “Vô tình” là điểm khởi đầu cho sự “bất bình”!
Ở hầu hết mọi bài trong Nhật ký, như nói ở trên, chủ thể luôn có xu hướng vươn tới một vị thế khác của khanh tướng công hầu…quý phái, vương giả, sang trọng. Nhưng ở bài này chủ thể lại trở về vị thế thực “lung nhân” trong “lung lý”? Hay nhà thơ muốn nói tới một quy luật này: khi tiếp nhận sự chia sẻ của tri âm thì con người phải ở vị thế thực để thành thực! Nhưng “hoa hương” (và bạn đọc) thì rất hiểu “lung nhân” chỉ là tên gọi, còn đích thực trong tâm hồn đấy là “thi nhân”, vì chỉ có thi nhân mới hiểu và cảm thông cho cái đẹp. Bài thơ ngắn mà tầng lớp ý nghĩa, nhưng chúng ta dễ đồng ý với những nét nghĩa này: biết yêu mến trân trọng cái đẹp; phải thấu hiểu mới thấu cảm cái đẹp, cũng vậy, có thấu hiểu mới thấu cảm được lòng người!
Tục ngữ Việt có câu tuyệt vời sâu sắc một tinh thần mỹ học “Người ta là hoa đất”. Con người chính là cái đẹp. Con người chính là giá trị. Sau này ở cương vị Chủ tịch Nước, Bác Hồ có nói giành được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Thì ra, xét đến cùng sự nghiệp vĩ đại Hồ Chí Minh là đi tìm và đem hạnh phúc đến cho con người. Đấy cũng là tư tưởng mỹ học nhân văn phổ quát của nhân loại xưa nay. Bác Hồ của chúng ta là Danh nhân văn hóa thế giới, là như thế.
Tư tưởng mỹ học ấy cũng là ánh sáng để chúng tôi đi vào tìm hiểu thế giới tiếng cười của Người. Tiếng cười ấy, xét đến cùng cũng là một thứ vũ khí để Bác Hồ chiến đấu chống lại cái ác, cái xấu, cái phản động… để mang lại hạnh phúc cho con người, không chỉ cho người Việt Nam mà còn cho con người nói chung, không chỉ cho dân tộc này mà còn cho cả nhân loại.
NTH