Những sắc thái nghĩa “Đồng bào” mà Bác Hồ sử dụng

Thứ Năm, 19/01/2023 07:42

PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ
 

Hai chữ “đồng bào” chiếm vị trí đặc biệt, là một mã văn hoá đặc biệt biểu hiện tư tưởng đoàn kết - một bộ phận hạt nhân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khảo sát trong Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập. 2011), hai chữ này xuất hiện khoảng trên 2000 lần. Trong các lá thư và trong các lần nói chuyện Bác Hồ đều dùng “đồng bào”, như: đồng bào Công giáo, đồng bào Mán, đồng bào hậu phương, đồng bào tản cư, đồng bào Nam bộ… Trong 2 năm 1945, 1946 Người có 20 lá thư có tiêu đề “gửi đồng bào”:

- Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp “Tuần lễ Vàng” (17/9/1945).

- Gửi đồng bào Nam bộ (26/9/1945).

- Lời cảm ơn đồng bào Công giáo (14/10/1945).

- Lời kêu gọi đồng bào Nam bộ (29/10/1945).

- Gửi đồng bào ngoại thành Hà Nội (15/12/1945).

- Lời cảm ơn đồng bào (14/2/1946)…

Bác Hồ dùng từ “nhân dân” trong hoàn cảnh đối thoại với thế giới, nên trong Lời kêu gọi nhân dân thi hành đúng bản Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp (16/3/1946) Bác dùng từ “nhân dân” chứ không dùng “đồng bào”. Thế nên ta hiểu với người nước ngoài Bác dùng từ “nhân dân” hoặc dân chúng: Lời phát biểu với nhân dân Pháp qua Đài phát thanh Pari (15/9/1946); Điện gửi nhân dân Pháp nhân ngày 19/12/1948… Nhưng trong bối cảnh lời tuyên bố cần sự trang trọng Bác dùng “quốc dân”: Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23/10/1946). Nếu lời tuyên bố này dùng “đồng bào” thân tình gần gũi thì sắc thái trang trọng bị giảm đi nhiều. Với Hoa Kiều, Bác gọi “anh em”: Thư gửi anh em Hoa Kiều (2/9/1945 và 28/12/1946). Điều này được chính Bác giải thích: “Chúng ta phải nhớ rằng: Việt và Hoa là hai dân tộc anh em” trong bài báo Hoa Việt tinh thành đoàn kết in trên báo Cứu quốc ngày 28/11/1945.

Với người trong nước Bác Hồ dùng “đồng bào”, nhiều nhất trong những lá thư gửi “đồng bào Công giáo” vì Người rất quan tâm tới sự “đoàn kết lương giáo”. Hai chữ “đồng bào” luôn là sự ấm áp cũng là nỗi trăn trở trong suy nghĩ của Bác Hồ. Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc in trên báo Cứu quốc ngày 15/11/1946[1] chỉ hơn 100 chữ nhưng có 05 lần hai chữ “đồng bào”. Trong Lời cảm ơn đồng bào in trên báo Sự thật ngày 23/9/1949[2] chưa đầy 200 chữ nhưng “đồng bào” được nhắc lại 09 lần…

Theo Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, “đồng bào” có nghĩa cùng là con cháu một ông tổ sinh ra. Nhiều ý kiến nhận định truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ xuất hiện từ thời Xích Quỷ. Khoảng 2.200 năm TCN, do nhà Hạ lấn chiếm, nhà nước Xích Quỷ tan rã, bộ phận người Việt vẫn giữ truyền thuyết nguồn gốc “đồng bào” của mình. Cách hiểu theo lối chiết tự vẫn phổ biến hơn, đồng nghĩa là cùng, bào nghĩa là bọc. “Đồng bào” gắn liền với thần thoại cổ xưa ca ngợi nòi giống cao quý của tổ tiên dân tộc Việt: Lạc Long Quân giống rồng kết duyên cùng Âu Cơ giống tiên. Truyền thuyết nhắc nhở cháu con dù nơi miền biển, dù triền núi cao đều là con Hồng cháu Lạc chung một nguồn cội. Để rồi Việt Nam hôm nay tự hào là nước duy nhất trên thế giới có tín ngưỡng thờ vua Tổ: “Dù ai buôn đâu bán đâu/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba”. Nhờ tinh thần đoàn kết “đồng bào” muôn người như một mà Việt Nam ta đã viết nên những trang sử bằng vàng chói lọi về tinh thần yêu nước, tinh thần không chịu sống kiếp tôi đòi nô lệ. Ngay trong Đại dịch Covid vừa qua, nhờ tinh thần ấy chúng ta vượt qua như một kỳ tích, dù chịu ít nhiều tổn thất nhưng thế giới vẫn nể phục con người Việt Nam, tấm lòng Việt Nam!

Nhiều truyện cổ các dân tộc Việt Nam có môtíp giải thích nguồn gốc các dân tộc chung từ “quả bầu mẹ”. “Quả bầu” chính là “hình thức phái sinh” của “cái bọc trăm trứng”. “Bầu” là thứ cây gần gũi quen thuộc vùng cư dân nông nghiệp, miền núi cũng sẵn, đồng bằng cũng nhiều, dễ trồng, dễ chăm và rất tiện dụng, có thể ăn lá, ăn quả… Bầu leo trên giàn, ngọn nọ ngọn kia quấn quýt, nâng đỡ nhau gợi liên tưởng về sự giao hoà, đoàn kết, tương thân tương ái… Một hình tượng thật hay để nói về sự yêu thương, keo sơn, gắn bó. Đồng bào dân tộc Kinh cũng có câu ca dao thật thấm thía: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”!

Trong từ vựng tiếng Việt chữ “đồng” (cùng) làm thành hệ thống từ ghép đồng nghĩa phong phú bậc nhất (so với từ vựng các nước khác): đồng bào, đồng tâm, đồng chí, đồng ý, đồng tình, đồng lòng, đồng hương, đồng cảm, đồng điệu, đồng hành, đồng đội, đồng hao, đồng môn, đồng nghiệp, đồng khởi, đồng diễn, đồng ca… Có biết bao nhiêu thành ngữ, tục ngữ, ca dao nói về sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau: “Chị ngã em nâng”, “Tay đứt ruột xót”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”…

Trong ngày Lễ 2-9-1945 Bác Hồ dùng chữ “đồng bào” thật tinh tế, hướng cả dân tộc về nguồn cội tổ tiên đồng lòng nhất trí dựng xây và bảo vệ nước Việt Nam độc lập. Trước đó, năm 1942 Người viết Lịch sử nước ta kêu gọi toàn dân đoàn kết: “Dân ta xin nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Trong kiệt tác này Người chứng minh và khẳng định chân lý lịch sử: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Đó cũng là chân lý thời đại!

Hội nghị Diên Hồng nhà Trần khích lệ tướng sỹ đoàn kết như tình cha con quyết đuổi giặc Mông Nguyên hung hãn giành lại non nước cha ông!

Thời Lê Lợi - Nguyễn Trãi “tướng sỹ một lòng phụ tử”, ngọt ngào “nước sông chén rượu” để mang về độc lập giang sơn!

Trong Thư gửi đồng bào tản cư Hồ Chí Minh khẳng định con cháu của dòng giống anh hùng thì không bao giờ chịu khuất phục trước gian nan thử thách: “Con cháu Lạc Hồng, bao giờ cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ”[3]. Người lại có Thư gửi đồng bào hậu phương căn dặn họ phải giúp đỡ đồng bào tản cư như người trong một nhà: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”… Mỗi một đồng bào phải sẵn lòng bác ái, phải cư xử cho xứng đáng là con Rồng cháu Tiên[4].

Kháng chiến chống Pháp đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh kêu gọi nguỵ binh quay về với Tổ quốc để đất nước sớm hoà bình. Người mượn lời ca dao và thành ngữ quen thuộc nói về tổ tiên: “Tôi thiết tha kêu gọi các người mau mau quay về với Tổ quốc,… Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Con Hồng cháu Lạc phải thương nhau cùng”[5]. Đường lối đoàn kết toàn dân nhằm một mục đích tổ quốc độc lập nhân dân được tự do, hạnh phúc của Bác Hồ luôn tạo ra một sức mạnh tổng hợp của toàn dân: “Hễ là con Hồng cháu Lạc, người có lương tâm, thì chắc ai cũng tán thành và ủng hộ mục đích cao cả ấy. Cho nên chúng ta đoàn kết rộng rãi tất cả những người Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hoà bình, yêu thống nhất trong cả nước và ở nước ngoài”[6].

Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn, yêu thương con người, vì con người, không chỉ với anh em, đồng chí, đồng bào mình mà còn mở lòng với những người lầm đường lạc lối: “Tôi thiết tha kêu gọi những đồng bào vì một cớ gì mà lầm đường lạc lối hãy kịp trở về với Tổ quốc. Dù sao các người cùng là ruột thịt. Tôi tin rằng các người không thể nỡ lòng giúp địch làm cho đồng bào Việt Nam ta khổ nhục mãi; tôi rất đau lòng thấy cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn[7]. Chỉ trong ba câu ngắn mà có hai lần dùng “đồng bào”, nhất là câu giữa “Dù sao các người cùng là ruột thịt” thật thấm thía, ân tình!

Tháng 9-1947 Chính phủ kháng chiến chịu một tổn thất lớn: Cụ Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng từ trần. Thay mặt Chính phủ, nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xin hứa với Cụ: “Đồng bào Việt Nam quyết theo gương kiên quyết của cụ/ Con Rồng cháu Tiên quyết không làm nô lệ…!”[8]. Tháng 5-1948 Cụ Nguyễn Văn Tố qua đời, Hồ Chí Minh có lời điếu ghi công Cụ và mong những người tiếp bước Cụ gắng làm rạng danh “Con cháu Lạc Hồng”: “Non sông gấm vóc há cam lòng chịu đoạ đày/ Con cháu Lạc Hồng, nào để thực dân khinh miệt”[9]. Ở Lời kêu gọi trong dịp 1000 ngày kháng chiến, Hồ Chí Minh khẳng định con cháu Lạc Hồng thì nhất định chiến thắng kẻ xâm lăng: “Cuộc kháng chiến của ta đã tập trung tất cả cái tinh thần quật cường yêu nước của giống nòi Hồng Lạc lưu truyền từ mấy ngàn năm”[10].

N.T.T


[1]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia 2011, tr 497.

[2]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6. Sđd, tr 205.

[3]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 64.

[4]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 98.

[5]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7. Sđd, tr 234.

[6]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10. Sđd, tr 359.

[7]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 249.

[8]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 143.

[9]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 544.

[10]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Sđd, tr 552.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)