. NGUYỄN ĐỨC NAM
Có thể khẳng định Nguyễn Ái Quốc là một trong những người dân thuộc địa đầu tiên vạch ra sự tương phản trời vực giữa nước Mẹ chính quốc và các nước thuộc địa. Sự tương phản giàu có, văn minh lạc hậu là đương nhiên, dễ thấy nhưng cái oái oăm lại là sự tương phản đến mức phi lý như thế này. Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày những điều ấy trên mặt báo cho cả thế giới biết.
“Như các bạn đều biết, các thuộc địa vẫn được gọi là những nước Pháp hải ngoại, và người Pháp của những nước Pháp ấy là người An Nam, người Mađagátxca hoặc người...v.v. Bởi thế, cái gì ở bên này là phải thì ở bên kia là trái, và cái gì ở bên kia được phép thì ở bên này bị cấm. Thí dụ: ở bên ấy, tất cả người Pháp đều được phép làm cho dân bản xứ ngu muội đi bằng thuốc phiện, họ càng bán được nhiều thuốc phiện, thì càng được quý trọng; nhưng ở bên này, nếu anh đem bán thứ thuốc độc ấy thì, anh sẽ bị tóm cổ ngay lập tức. Nếu ở bên Pháp, một viên chức cao cấp được phép vận quần áo lót để đi ra đường, thì ngược lại một ông hoàng bản xứ không có quyền mặc áo bản xứ, ngay cả khi ở nhà và đang ốm”[1]. Từ sự tương phản phi lý bật ra hai ý nghĩa: một là chính sách ngu dân bằng đầu độc rượu và thuốc phiện của thực dân ở thuộc địa, hai là tước bỏ rồi tiến đến xoá bỏ văn hoá thuộc địa. Tất cả đều là phản động đến mức phản tiến hóa, phản văn minh.
“Bị trói gô vào cột buồm tàu và được đưa đi làm quân tình nguyện ở châu Âu, đánh phường man rợ để bảo vệ văn minh, nhưng một khi đến xứ văn minh rồi thì những người bản xứ của ông Têry lại được cái thú tha hồ nếm “trái cây trong vườn cấm”. Những người bản xứ còn sống sót sau cuộc tàn sát năm 1914 cũng như những người bản xứ còn sống sót sau đại chiến 1914-1918 đều có thể tự hào rằng vì công lý và nền dân chủ của chủng tộc cao đẳng, họ không những đã hiến đời mình, xương máu mình, mà còn hiến cả niềm t...in của mình nữa”[2].
Chúng ta chú ý tới cách mỉa mai qua cụm từ “vì công lý và nền dân chủ của chủng tộc cao đẳng”. Đó chỉ là cách nói ngược, vì “công lý”, “dân chủ”, “văn minh” gì mà những người dân bản xứ đáng thương kia lại bị “trói gô vào cột buồm tàu”. Hơn nữa kẻ lừa bịp dư luận nói đó là quân “tình nguyện”. Thế là chính những dân bản xứ bị “lừa” đi “tình nguyện” đi “đánh phường man rợ để bảo vệ văn minh”. Kết quả họ phải chết sau khi “đã hiến đời mình, xương máu mình, mà còn hiến cả niềm t... in của mình” cho chính sách xỏ lá trắng trợn của chính phủ thực dân.
Ngày 1/8/1922 trên báo Le Paria số 5, Nguyễn A.Q. cho in bài Khai hóa giết người. Trong phần nội dung chính tác giả vẽ ra hiện thực chết đói, giết người ở xứ Đông Dương. Trong phần tái bút, người viết cụ thể hoá vấn đề qua một chi tiết:
“T.B.- Trong khi tính mệnh của một người An Nam bị xem như thân con chó, không đáng giá một đồng trinh, thì ngài Tổng thanh tra Rêna, bị sướt có một chút da ở cánh tay mà được lĩnh 120.000 phrăng tiền bồi thường. Ôi, bình đẳng! Bình đẳng quý hoá thay!”[3]. Một tương phản gắt gao, không thể chấp nhận: cũng là con người mà một đằng thì “không đáng giá một đồng trinh”, một đằng chỉ “bị sướt có một chút da ở cánh tay mà được lĩnh 120.000 phrăng tiền bồi thường”. Hai chữ “bình đẳng” được tác giả nhại ở cuối bài bổ sung thêm, làm rõ tính chất cực kỳ phản động, giả dối của thực dân Pháp.
“Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Người nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản. Chính họ là những người phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ lao dịch. Chính họ làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ người đi khai hoá và những bọn khác hưởng mà chính họ thì lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thãi; hễ mất mùa thì họ chết đói. Đó là vì họ bị ăn cắp khắp mọi phía, bằng mọi cách, do các quan cai trị, do bọn phong kiến tân thời và nhà thờ. Xưa kia, dưới chế độ An Nam, ruộng đất chia thành nhiều hạng tuỳ theo tốt xấu. Thuế đánh theo sự phân hạng ấy. Dưới chế độ thuộc địa hiện nay, tất cả những cái đó đều thay đổi. Khi cần kiếm tiền các quan cai trị người Pháp chỉ việc bắt thay đổi hạng ruộng. Chỉ một nét bút thần kỳ là họ biến một đám ruộng xấu thành ruộng tốt. Thế là người dân cày An Nam buộc phải nộp thuế cho đám ruộng của mình nhiều hơn số họ thu hoạch được”[4]. Đây là một đoạn trích trong bài báo Tình cảnh nông dân An Nam được tác giả cho in trên báo La Vie Ouvrière ngày 4 -1-1924. Chúng ta chú ý tới sự mỉa mai trong câu văn qua mâu thuẫn “è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ”. Công ơn bảo hộ mà lại phải “è cổ ra mà chịu”? Đúng là nghịch lý nhưng nghịch lý này lại làm bật ra một sự thật: người Pháp sang An Nam bóc lột nhưng lại rêu rao là sang để “khai hoá, bảo hộ”… Đoạn văn nổi lên một sự tương phản phi lý giữa nông dân An Nam “phải è cổ ra mà chịu” và những kẻ “bảo hộ”. Người nông dân An Nam thì: chịu bị áp bức, chịu bị ăn cắp, chịu bị cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản… phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ lao dịch… Còn kẻ “bảo hộ” thì sao? Đó là một lũ người ăn bám, lũ người lười biếng. Đó là những tên đao phủ có một cuộc sống rất thừa thãi. Đó là những kẻ phù thuỷ mà “chỉ một nét bút thần kỳ là họ biến một đám ruộng xấu thành ruộng tốt”.
Những đối thoại ấy gián tiếp nêu ra một chân lý: Còn chủ nghĩa thực dân thì các dân tộc thuộc địa còn chịu làm nô lệ!
Để làm bật ra sự thảm hại của người dân bản xứ, tác giả “vẽ” ra bức tranh tương phản về “dân chủ”: “Một giáo viên bản xứ lĩnh 555 phrăng và một giáo sư người bản xứ lĩnh 1.200 phrăng mỗi tháng, còn một giáo viên người Pháp lại lĩnh những 3.750 phrăng và một giáo sư người Pháp lĩnh những 6.000 phrăng mỗi tháng, đấy là chưa kể mọi thứ phụ cấp mà chỉ riêng giáo viên và giáo sư người Pháp mới được hưởng.
Ta hãy nêu ra một vài con số nữa: một viên thiếu uý Pháp lĩnh 62.244 phrăng; một viên trung uý Pháp được 77.844 phrăng; một viên đại uý Pháp thì được 93.444 phrăng; một viên công sứ ở Bắc Kỳ thì mỗi năm được 234.000 phrăng, chưa kể các khoản phụ cấp. Còn một công nhân nông nghiệp người bản xứ thì mỗi năm kiếm được từ 400 đến 500 phrăng.
Ách thống trị của bọn đế quốc được dựng lên không những chỉ bằng chính sách ngu dân, chế độ không bình đẳng và nạn bóc lột, mà còn bằng chính sách khủng bố và mật thám nữa. Ở Pháp, người ta nói rằng xứ Đông Dương chưa bao giờ được phồn thịnh và an ninh như thế cả. Nhưng nhà tù ở Đông Dương lại chật ních và chế độ kiểm duyệt thì thường xuyên”[5].
Sức mạnh chinh phục của lập luận không chỉ là các nguyên tắc mà là các số liệu, các con số đã vạch trần sự “dân chủ” đểu giả, bất nhân của thực dân. Các con số tương phản, đối lập nhau đã nói lên một cách sinh động thực tế ấy.
Thực dân Pháp xâm lược An Nam dưới chiêu bài “khai hoá”, đem “văn minh” nước Mẹ Đại Pháp đến cho xứ lạc hậu này. Nhưng thực chất đó là cuộc xâm lược, là bóc lột, là phản văn minh, phản khai hoá. Nguyễn Ái Quốc là một trong những nhà cách mạng người bản xứ đầu tiên vạch trần cái chính sách giả dối, thâm độc ấy: “Các ngài chiến thắng quang vinh của chúng ta thường quen thói “giáo dục” người bản xứ bằng đá đít hoặc roi vọt”[6]. Kết tội chính sách phản động - kẻ thù chung của nhân dân các nước thuộc địa, ngoài lòng căm thù, tình yêu thương giai cấp còn phải là sự hiểu biết, là trí tuệ. Nguyễn Ái Quốc đã hội tụ đủ những yêu cầu ấy nơi ngọn bút sắc sảo của mình: “Trong xứ Goađơlúp, 10.000 trẻ em không có trường học. Tại Angiêri thuộc Pháp, từ suốt 94 năm nay, trong số 5.000.000 dân chỉ có 35.000 học sinh là được hưởng thụ một nền giáo dục nhỏ giọt, còn 695.000 trẻ em bản xứ thì phải chịu dốt nát. Tại Cao Miên: 60 trường cho 2.000.000 dân! Tại Nam Kỳ (thuộc Pháp từ hơn nửa thế kỷ nay): trong số 2.500.000 người dân, chỉ có 51.000 học sinh.
May mắn thay, tuy chúng ta thiếu trường học, nhưng nước Pháp đã ban cho chúng ta rất nhiều nhà thổ, tiệm hút thuốc phiện và ty rượu”[7]. Sự thuyết phục của đoạn văn này là số liệu cụ thể không chỉ của một xứ mà khá toàn diện về chế độ giáo dục nô mà thực dân Pháp chủ trương. Chỉ có thể dựa trên số liệu này thì sự mỉa mai suồng sã ở đoạn sau mới vừa trào phúng chua chát, căm uất về kẻ đã gây ra sự ngu dốt tăm tối không chỉ cho một nơi mà nhiều nơi, không chỉ cho một thế hệ mà nhiều thế hệ; lại vừa trữ tình xót xa, thương cảm những kiếp làm than tăm tối.
Ngòi bút trào phúng Nguyễn Ái Quốc không chỉ hướng tiếng cười vào bọn áp bức bóc lột để phơi bày tất cả những tính cách xấu xa, những hành vi vô nhân đạo, phản nhân tính mà còn hướng tới cả những trạng huống thảm hại của con người nói chung. Có lẽ phải hiểu một cách rộng rãi hơn về các đối tượng đáng cười của tác giả mới có thể hiểu được sâu sắc hơn giá trị phổ quát của tiếng cười độc đáo và vĩ đại này, như ở ví dụ sau: “Vì đang ốm, nên cố quốc vương Tuynidi đã cứ mặc nguyên áo ngủ mà tiếp quan khâm sứ. Như thế đã là bậy rồi; nhưng còn bậy hơn nữa là cháu nội và cháu họ nhà vua lại quên chào quan khâm sứ nói trên. Thế là sau hai ngày, đúng vừa đủ thời gian để suy nghĩ, quan lớn khâm sứ bèn mặc nhung phục, kéo binh mã đến bắt nhà vua phải xin lỗi. Thế mới đúng chứ. Một khi anh là quốc vương và chịu sự bảo hộ của một ông thánh (ông Xanh) thì dù là thánh cha, thánh con hoặc thánh thần, anh cũng không có quyền được đau ốm. Còn các chú "nhóc con" bản xứ, các chú phải biết rằng, một khi đã sinh ra dưới đôi cánh mẹ hiền của nền dân chủ thì các chú không được nô đùa, reo cười, hò hét, mà phải học chào lạy”[8]. Tiếng cười hướng tới cả hai đối tượng: “quan khâm sứ” và chủ yếu là cười “cố quốc vương Tuynidi” cùng con cháu. Quan khâm sứ thì lộng hành, cố quốc vương thì nhu nhược bởi cái phận nô lệ. Đường đường là một quốc vương, lại là chủ nhà mà phải xin lỗi một viên quan thì thật ngược đời. Ở đâu còn nô lệ thì ở đó có sự ngược đời như vậy. Để lời văn thêm hàm lượng mỉa mai chua chát, lời bình luận mang quan điểm của người kể đưa ra thật đúng lúc: Như thế đã là bậy rồi; nhưng còn bậy hơn nữa là… Thế mới đúng chứ… Nhất là lời bình luận ở cuối đoạn như làm rõ hơn cái hoàn cảnh nô lệ thảm hại: “Một khi anh là quốc vương và chịu sự bảo hộ của một ông thánh (ông Xanh) thì dù là thánh cha, thánh con hoặc thánh thần, anh cũng không có quyền được đau ốm. Còn các chú "nhóc con" bản xứ, các chú phải biết rằng, một khi đã sinh ra dưới đôi cánh mẹ hiền của nền dân chủ thì các chú không được nô đùa, reo cười, hò hét, mà phải học chào lạy”! Đây là tiếng cười mang tính thức tỉnh, thức tỉnh những dân tộc đang bị u mê trong bóng đêm nô lệ. Giá trị phổ quát của nó vươn ra ngoài một tiếng cười châm biếm nỗi ô nhục thông thường để vươn tới một tầm văn hoá mang tính toàn nhân loại: phải trả cho con người sống ở bất cứ nơi nào cái quyền tự quyết, phải trả lại cho các dân tộc đang bị áp bức bởi chủ nghĩa thực dân cái quyền độc lập tự do!
N.Đ.N
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia 2011, tr 53.
[2]Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 151.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 113.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 247.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2. Sđd, tr 375.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2. Sđd, tr 37.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 338.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2. Sđd, tr 54.
VNQD