Ta biết xuân nhau có một thì

Thứ Ba, 28/01/2025 06:21

. NGUYỄN TRƯƠNG QUÝ
 

Khi thử đọc những câu thơ về Tết, Nguyễn Bính là cái tên bật ra đầu tiên. Nhưng thơ ông viết về mùa xuân ở làng quê đã thành quen, trong khi đó ông có chừng 10 năm lăn lóc “gió bụi kinh thành” ở Hà Nội, những cái tết ở chốn này cũng đáng nói như một cách nhà thơ soi mình giữa chốn phồn hoa. Sau này, Nguyễn Bính lưu lạc vào Huế rồi miền Nam, viết những bài thơ Xuân tha hương hay Một con sông lạnh, với Hà Nội hiện lên như ảo ảnh: Đôi dây như thể đôi đường/ Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào?

Tết Hà Nội trong văn chương một thời thường chịu ảnh hưởng của điều kiện kinh tế và xã hội, đồng thời từ xuất thân của những người viết. Phần lớn tác giả thuộc tầng lớp trung lưu trở xuống, thậm chí dân nghèo thành thị, “trang lại trang máu lẫn mồ hôi, từng dòng tay bút đã buông xuôi” (Đời một nhà văn - Trần Huyền Trân). Hình bóng tết trong văn thơ dễ bắt mạch những nghịch cảnh giữa cái sắc tưng bừng của vạn vật với sự eo sèo cơm áo, từ chuyện hai cô gái điếm không có khách nhớ thời thơ ngây trong phút giao thừa (Tối ba mươi - Thạch Lam) đến người phu xe cố chạy chuyến cuối để mang ít hào lẻ về cho gia đình mà bị cô gái làng chơi ế khách quỵt nốt số còn lại (Người ngựa ngựa người - Nguyễn Công Hoan). Cái tết của họ nếu không phải một câu chuyện của cái nghèo hèn hành hạ thì cũng là tết xa nhà, li tán. Nguyễn Bính đã rõ, nhưng những tác giả khác có phong lưu hơn như Nguyễn Tuân cũng kể trong những tùy bút về những cái tết xê dịch. Người đọc ít cảm thấy một không gian tết yên ổn, tràn trề thi hứng nơi phố xá. Đó là chưa kể đến sự cộng hưởng của những sản phẩm nghệ thuật khác như bài hát nổi tiếng Đêm đông được Nguyễn Văn Thương và bạn học viết lời là Kim Minh, ghi lại tâm trạng người trọ học ở Hà Nội đi qua phố cô đầu Khâm Thiên đêm giao thừa giá rét: Đêm đông! Thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư. Đêm đông! Ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng… Ta lê bước chân phong trần tha phương, có ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà.

Ở một chiều khác, những trang viết có màu sắc phong tục về cái tết truyền thống lại khá nên thơ trong tùy bút Thạch Lam hay Vũ Bằng, hay một số truyện ngắn của Nguyễn Tuân. Tết Hà Nội của tác giả này phần nhiều là những hoài niệm về thời thơ ấu hay một thời “vang bóng” đã qua. Chúng tương hợp với những khảo cứu văn hóa của các học giả như Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Huyên, Toan Ánh…, cộng hưởng với thơ văn về mùa xuân hay lễ tết ở nông thôn của Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, đem lại một bức tranh nhiều phần hoài cổ. Chính đặc điểm này cũng ngầm định đưa thông tin về sự bất như ý của thực tại.

Tết của thập niên 1960 mang một không khí khác hẳn của những cảm hứng tập thể. Những bài thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch và những câu thơ xuân của Tố Hữu tạo ra khẩu khí một thời, một Hà Nội mang mĩ học của cái nghèo: Ta còn nghèo, phố chật nhà gianh/ Nhưng cũng đủ vài tranh treo tết (Bài ca mùa xuân 1961 - Tố Hữu). Cũng cái tết Hà Nội, trong thời chiến tranh chống Mĩ chuyển thành biểu tượng, thậm chí là một vũ khí văn hóa: “Chiều ba mươi tết, tôi vẫn đi giữa chợ đào, có những gốc hoa to và cao hơn hẳn tôi một đầu người. Tôi đứng dưới gốc đào, một buổi chiều ngừng bắn, nghĩ miên man thấy sự sống là một điều gì thật là óng ánh, thiêng liêng, và hồng hào. Hẳn lúc này, ở một địa điểm nào đó của miền Bắc sắp vào xuân, đồng chí Cao cũng đang đứng dưới một gốc đào. Đứng dưới một gốc đào chiến thắng mà giảng cho bọn giặc bay Hoa Kì một bài học văn hóa, về nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta đang ở tuyến đầu chống đế quốc Mĩ” (Cho giặc bay Mĩ nó ăn một cái tết ta, in trong Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Nguyễn Tuân). Tết thời chiến được khắc họa bằng sự tương phản giữa quá khứ bình yên và những cuộc oanh tạc của không quân Mĩ, gắn kết với những phức cảm “trơ gan cùng tuế nguyệt” của các di sản mảnh đất nhiều lớp lang văn hóa mà các thi nhân trung đại gửi gắm trong thi ca, như Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du hay Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan.

Tết của Hà Nội trong nhiều năm đã định vị một sự tằn tiện, thậm chí trong các tác phẩm báo hiệu sự thay đổi của thập niên 1980 cũng vẫn là một sự lạc quan nhất định. Nhân vật người con trai là nhà báo trò chuyện với người cha cũng là một trí thức theo nghề viết, về ý nghĩa cái tết trong khung cảnh xã hội nảy sinh tiêu cực, dĩ nhiên là tiêu cực dưới mắt họ:

“Không hiểu có phải vì không khí tết nhất gợi nhớ không mà con bỗng thấy sao lúc này cái ý nghĩa thiêng liêng của gia đình, tổ tiên lại gia tăng lên đến mức kì lạ thế. Gia đình, hình như đó mới là nơi con người cố thủ để bảo vệ phẩm giá mình. Con thấy thế này: Xã hội đang có bước chuyển.

… Dưới đường bỗng đùng đoàng nổ một tràng pháo.

Tìm được cớ để thoát ra khỏi sự lúng túng, Luận bước ra cửa sổ, reo:

- Ôi chà! Đông quá kìa. Ba ra xem trẩy hội, ba! Các bà đi lễ chùa đông không? Xem mọi người sửa soạn tết mới biết, từ trong sâu xa dân ta còn tàng ẩn một sức sống mãnh liệt lắm.

Ông Bằng qua cơn váng vất, ngẩng dậy, đưa tay xoa mặt:

- Cái tết còn có sức động viên lớn lắm, con ạ”

(Mùa lá rụng trong vườn - Ma Văn Kháng)

Những triết lí về nhân tình thế thái qua sự mô tả cái tết của năm 1985 khi cuốn tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn ra đời chỉ 2-3 năm sau đã tựa như lộn trái trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tết ở một gia đình bình dân Hà Nội hiện diện như một sự gắn kết khá lỏng lẻo của xã hội đang chứng kiến sự lên ngôi của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với cảm hứng cộng đồng mang màu sắc tập thể của Ma Văn Kháng:

“Nhà hàng xóm sang chúc tết, Đoài ra tiếp. Chúc mừng xong xuôi ngồi uống nước nói chuyện phiếm. Đoài bảo: “Xin lỗi bác, cháu chẳng biết nhà bác có bao nhiêu người, tên là gì”. Ông hàng xóm cười: “Thì tôi cũng thế”.

Ba ngày tết trôi qua, lòng đường đầy xác pháo. Ai cũng có cảm giác ngày tết trôi nhanh! Ngày nào mà chẳng trôi nhanh, hở giời?”

(Không có vua - Nguyễn Huy Thiệp)

Những lời tự thán trong đoạn văn trên không được tác giả ấn định cho nhân vật nào, dường như muốn gán làm tâm trạng chung. Sự vô vị của cái tết cũng như ngày thường ngầm thông tin về sự nhạt nhòa của truyền thống, báo hiệu một xã hội chuyển dịch, không còn lấy những lễ nghĩa làm trọng, thứ được coi như thuộc về truyền thống, thuộc về vùng bên ngoài đô thị.

Những cái tết là thời điểm tính chất đô thị lùi lại, nhường chỗ cho tính chất truyền thống của tập quán làng xã vùng xung quanh nổi lên. Những tục thờ cúng hay các lễ chạp các làng vùng ven đô tỏ ra có cá tính hơn trong phố. Ngay chính những đền chùa ở phố cũng từng là địa chỉ tín ngưỡng của cư dân các phường thợ hay làng xóm cũ sau các lần đô thị hóa đã thành phường nội thành.

Chính tại những vùng ven này, văn chương về cái tết có một mật độ khá đậm. Trở lại với Nguyễn Bính. Mùa xuân Hà thành với ông là những xóm ở Hoàng Mai với những “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” (Tương tư) và nhất là cả tập Người con gái ở lầu hoa với đoạn đường có các “địa chỉ” kinh điển - Phố Huế, Bạch Mai và Hoàng Mai: Nhà nàng ở gốc cây mai trắng/ Trên xóm mai vàng dưới đế kinh/ Có một buổi chiều qua lối ấy/ Tôi về dệt mãi mộng ba sinh. Nhưng mùa xuân của Nguyễn Bính luôn là: Mùa xuân qua cửa, tôi qua cửa/ Nàng chả nhìn cho, đến não nùng! (Người con gái ở lầu hoa). Bạch Mai xuống đến Hoàng Mai vào trước thập niên 1950 thuộc tỉnh Hà Đông. Một người con gái có tên là Oanh, “tóc vẫn buông lơi, răng vẫn trắng” ở Hà Đông, mà như lời tả của Tô Hoài là nhan sắc không có gì đặc biệt, song cũng đủ để thi nhân viết thư nhét chật một hộp sắt tây đựng bánh bích quy cũ. Thực tế người anh của Nguyễn Bính, nhà thơ Trúc Đường, vào thời gian này dạy học ở Hà Đông. Nguyễn Bính khi lưu lạc vào Nam thường dùng địa chỉ này như một phiếm dụ về nơi chốn tình cảm cho một “chị Trúc” - mà như các bạn văn đã kể, là gửi cho anh trai mình: Tết này chưa chắc em về được/ Em gửi về đây một chút lòng/ Em sẽ uống say hơn mọi bận/ Cho hồn về tận xứ Hà Đông (Xuân tha hương). Những vùng ven đô này đã đi vào tiểu thuyết Ngoại ô, Ngõ hẹp (Nguyễn Đình Lạp), Giăng thề (Tô Hoài) như những mảnh ngoại biên của đô thị Hà Nội với bản sắc văn hóa khác đặc trưng. Theo nhà phê bình Lại Nguyên Ân, Tô Hoài giải thích nét đặc thù của một nơi như quê ông ở làng Nghĩa Đô vốn thuộc phủ Hoài Đức cũ: “Nhiều tục lệ, thậm chí hủ tục, được lưu giữ ở những vùng ven thành này lâu hơn nhiều so với những vùng nông thôn xa xôi khác. Vì người dân các vùng khác chỉ làm nghề nông, ít cơ hội kiếm tiền bằng nghề khác. Trong khi đó, một người phụ nữ ven nội, không cần có học vấn gì, sức khỏe bình thường thì chỉ với một gánh rau vào phố là đã có thể kiếm sống, tự nuôi sống. Mức sống khá hơn so với vùng thuần nông khiến họ duy trì được những phong tục lâu đời của làng quê” (Kỳ Thư, Vì đâu Tô Hoài là người “hiểu hết sự đời”?, báo Nhân dân, 23/7/2014). Không khí tết ở những vùng này dù không phải kiểu phố Hàng hay phố Tây nhưng chúng thật sự tạo ra một trường ảnh hưởng trong văn chương nghệ thuật. Cùng làm nên nhóm thơ “áo bào gốc liễu” với Nguyễn Bính là Trần Huyền Trân và Thâm Tâm, họ chung nhau cảm thức có màu hoài cổ về một kinh thành gió bụi mà họ có phức cảm bên lề: Kinh thành ríu rít nở nghìn xuân/ Nghìn cánh song dâng mộng đỏ dần/ Trong bụi nghìn màu theo gió loạn/ Chân mình vẫn lạc dấu nghìn chân (Tha hương - Trần Huyền Trân); Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/ Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”/ Ngoài phố mưa bay: xuân bốc rượu/ Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê/ - Ới ơi bạn tác ngoài trôi dạt/ Chẳng đọc thơ ta tất cũng về (Vọng nhân hành - Thâm Tâm)... Nhóm thơ này có hẳn địa chỉ thực tế ở vùng ven - ngõ Sơn Nam, Cống Trắng Khâm Thiên, nơi bà mẹ của Trần Huyền Trân có một túp lều cất vó ở đầm Liên Hoa. Khâm Thiên cũng như Bạch Mai, là những phố ngoại ô cho đến giữa thế kỉ trước. Những phố này thường có mặt tiền kiểu nhà buôn bán 1-2 tầng, trang trí kiểu cột vòm cổ điển kiểu Tây khá diêm dúa, nhưng chỉ có gian ngoài kiên cố, bên trong là những xóm nhà ẩm thấp, thậm chí nhà lá, cùng những con ngõ lầy lội như cái tên tiểu thuyết Sau ánh sáng của Trần Huyền Trân. Nhiều nhà mở hiệu hát cô đầu, ngoài Khâm Thiên còn có khu Vạn Thái ở Bạch Mai, cũng là nơi đi về của nhiều văn nhân tài tử, đến độ Vũ Bằng từng viết hẳn một bài có tên Xóm Khâm Thiên: Cái nôi của văn nghệ Hà Nội ba chục năm về trước. Sự đối nghịch của cảnh phố ngày xuân ở những xóm hát này dĩ nhiên tạo ra một cảm hứng sôi động cho những trang thơ văn những thập niên nửa đầu thế kỉ trước.

Cuộc kháng chiến bùng nổ mùa đông 1946 chính là mốc khép lại cảm hứng về vùng ven đô mang tính chất “sau ánh sáng”, nơi những xóm cô đầu cơ bản không còn thịnh thời, không chỉ vì chiến tranh mà vì sự cự tuyệt quá khứ: Xưa đây lối xóm cầm ca/ Bốn mùa ngả nghiêng sa đọa/ Phường cũ tan tành vùi xóm lá/ Mùa xuân về giữa chiến hào xa… (Ngoại ô mùa đông 1946 - Văn Cao).

Phố Khâm Thiên, Bạch Mai cũng như nhiều phố đã biến đổi quá nhiều. Không còn mấy người là nhân chứng của những xóm cô đầu còn sống. Những thú chơi tết truyền thống giờ đây có được khôi phục lại cũng đã tân thời hóa nhiều. Cảnh của đô thị đổi thay dẫn đến văn cảnh về đô thị ấy cũng đổi khác. Những cái tết Hà Nội đã có một chu kì đổi thay trong văn chương đô thị, đó là điều tất yếu. Ngày nay, điều người đọc hướng về những thơ văn mùa xuân của quá khứ tựa như soi vào một tấm gương có khả năng trình bày một chút vẻ hương xa lạ lùng. Tựa như những câu thơ nhói lòng của Nguyễn Bính khi xuân qua: Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả/ Ta biết xuân nhau có một thì (Cuối tháng ba). Văn chương nghệ thuật vốn là thế, như tình nhân gặp nơi hội xuân, có một thì để rồi muôn năm ngơ ngẩn hoài niệm.

N.T.Q

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)