. QUỐC VỊNH
Khái niệm hậu hiện đại ra đời trong lòng các nước tư bản phát triển những năm giữa thế kỷ XX, nở rộ vào những năm cuối thế kỷ. Nó có cơ sở xã hội và ý thức là khi xã hội bước vào thời kỳ hậu công nghiệp, văn minh tin học bùng nổ, internet kết nối toàn cầu thành một cái làng, chủ nghĩa kỹ trị lên ngôi...từ đó dẫn tới khủng hoảng niềm tin, con người hoài nghi cả Thượng đế (bây giờ không cần Chúa vẫn có thể tạo ra những điều kỳ lạ). Con người không điều khiển ngôn ngữ mà ngược lại, ngôn ngữ lại điều chỉnh người. Dần dần một số nhà nghiên cứu khái quát thành lý thuyết với quan niệm về con người dị thường, ảo giác hoá, con người sống trong hoài nghi, hư vô, bi quan, phi lý...Tương ứng với quan niệm này là cả một hệ thi pháp hậu hiện đại, như chủ đề phi trung tâm, không bản chất, sáng tác ngẫu hứng, lắp ghép, phân mảnh...Hình tượng mang tính phi lý mà nổi lên một “lục vô”: vô lý, vô bản, vô ngã, vô căn, vô hội (không khắc hoạ ngoại hình), vô dụ (không ẩn dụ). Tình tiết chồng chéo. Ngôn ngữ là một trò chơi...Có thể hình dung tác giả hậu hiện đại cầm một cái bình pha lê đập mạnh xuống sàn gạch, mảnh vỡ tung toé!!! Đấy là sáng tác hậu hiện đại.
Một tác phẩm mang tính hậu hiện đại khá tiêu biểu là cuốn 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần]. Xin trích ra một đoạn văn hậu hiện đại: “Úi a…sao mà nhức nhối ui… Còn mình thì đếk bít dòng rõi dòng rọc nhà lào chỉ biết nhà mình trồng thuốc lào cái rằng là quê iem ở Tiên Lãng, Hải Phòng, ơi, mịa mấy lâu mọi người vẫn đố nhau xem thành phố tỉnh thành lào là mạnh về cái khoản ấy nhất cho nên chúng nó lục tìm trong các bài hát tìm hỉu thế là thằng Hà Nội thủ đô oách nhất, tự nhận là mình kinh nhất với dẫn chứng “kìa nòng pháo vẫn vươn lên trời cao” ui chao thế cũng là oách lắm roài đủ sung sướng cho chị em lắm cơ nhưng mờ vữn đếk bằng Hải Phòng quê mình đâu nha: “Hải Phòng đó… hiên ngang chỉ biết ngẩng đầu…” (tr 10).
Một đoạn văn nhại, giễu, vô nghĩa, vô hồn, vô lối, phản cú pháp, phản giao tiếp, lắp ghép, ngọng nghịu, … Không hiểu sao lại được tung hô?
Chung quy là cái bệnh sính ngoại.
Thơ là địa hạt của sự sáng tạo cái đẹp, có thể là cái đẹp ở âm thanh, nhưng quyết không thể là cách tạo âm hậu hiện đại khó hiểu như thế này:
Noel, đèn, môi em, zaem, Jesusalem, phaphem, hang Đức Mẹ, Jot, Jotbêhe, mùi quen mà quên (D.T).
Hền hệch nước, Jji, Jjuâng, Hưngbi, BJinh, noel, nôem, nôelle, leng beng…( D.T).
…Mon men hẻm quen. Bước loeng quoeng. Đụng và gặp lèng quèng những ám. Lơ quơ ký hiệu. Vẽ rồng rắn lên ngày xanh xa…( N.H.H.M).
Thơ là nghệ thuật của trí tưởng tượng, là sự tạo hình tạo nghĩa đem lại cho độc giả những bất ngờ thú vị về những hình ảnh cuộc sống non tơ sinh sôi phập phồng hay biểu hiện một cuộc sống héo mòn, “mục ra, rỉ ra”…từ đó làm cho người đọc hiểu mà thêm yêu thương, căm thù hay khát vọng. Chứ quyết không tưởng tượng “vô hồn”:
Tôi lại đi…
Jiữa cái nong hình záng lưng tôi, một mảnh đen trước mặt, một vòng phấn dưới chân zính zính… những con 8 lộn zọc nhẵn thín nam châm, gói trong hạt thóc zống của không biết.
Tôi khắc biết mênh mông một cái bẹn Epicure ngập chìa chuồng bốn fía con mưa túlơkhơ xanh đỏ con sập sành…(Đ. Đ. H).
Bão loạn. Lốc dù. Xanh mí. Cốc ré…váy hè…Tiện nghi lạc xon. Chất chồng trố trố. Môi ngang. Vô hồn. Khoảng khắc. Mini mông lông. Cởi quần. Chửi thề. Con gà quay con gà quay. Bão loạn. Múa vàng. Te tua. Nhữ giấc. Bão loạn. Rùng rùng. Sặc nước. Giặt tóc. Liên tục địa đầm. Tim, chết, đi, bão loạn. Dứt tung tay. Óc lói…( H. H).
3. Cá tính là cái riêng, nổi trội để tạo ra tiếng nói riêng, giọng điệu riêng. Khi nhà văn lặp lại chính mình, lặp lại tiền nhân, lặp lại người khác, tức là đã tự mình đi vào ngõ cụt. Nhưng phải là cá tính sáng tạo, tức là phải tạo ra cái mới, tiến bộ, phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ, mới mẻ, độc đáo. Nói thế là vì người nghệ sỹ làm giàu cho xã hội không bằng số lượng của cải vật chất mà bằng các giá trị tinh thần, làm mới các giá trị tinh thần. Bởi, sự thật có khi chỉ là một nhưng phải cần nhiều cái nhìn, nhiều cách cảm, nhiều cách hiểu, nhiều cách lý giải để cho sự thật thêm phong phú về ý nghĩa, thêm sâu sắc về bản chất. Tức là nghệ sỹ không sợ thiếu đối tượng miêu tả, phản ánh mà chỉ sợ thiếu tài năng, thiếu cá tính mà thôi.
Tìm về tận ngọn nguồn của lịch sử âm nhạc thì trong thần thoại La Mã, thần âm nhạc có tên là Apollo mang cả nhiệm vụ là tiên tri, và chữa bệnh. Nghĩa là tận xửa xưa người ta đã quan niệm âm nhạc có chức năng tiên tri (nghe nhạc mà biết trước được những gì sẽ đến), và chức năng chữa bệnh (như đã phần nào đề cập ở trên). Nhìn vào lịch sử văn học dễ thấy, ở thời La Mã các chiến binh trước khi ra trận thường được nghe các khúc nhạc mạnh mẽ mang tính chất khích lệ để có thêm tinh thần chiến đấu. Khi giao tranh, người ta thường đánh trống, khua chiêng một cách dồn dập để cổ vũ các chiến binh xông lên. Khi trở về qua vùng biển Xiren nguy hiểm chàng Uylitxơ trong Ôđixê anh hùng phải nghĩ cách đút nút sáp ong vào tai anh em thuỷ thủ, còn mình thì bảo anh em trói vào cột buồm. Nhờ thế mà anh em không nghe được còn mình cũng thoát được sự quyến rũ mê hoặc của những tiếng hát du dương bởi các tiên nữ muốn chèo kéo các bậc nam nhi ở lại…Tiếng đàn chàng Thạch Sanh. Tiếng đàn này mê hoặc lắm, tài tình lắm. Đàn kêu tích tịch tình tang… để minh oan cho chàng: Ai đem công chúa dưới hang trở về…Và đặc biệt là tiếng đàn ấy làm cho quan quân 18 nước chư hầu lăn quay ra ngủ mà quên đi cái tội định gây chiến bằng gươm đao…Quả là không có tiếng đàn thì nguy hại biết bao nhiêu, có khi người chết, có khi nước mất…!!!
Thì ra cổ kim, đông tây đều rất coi trọng sứ mệnh của âm nhạc vậy!
Thế mà thời nay…Có con cháu của thần âm nhạc Apollo, của nghệ sỹ Thạch Sanh lại không hề tấu lên, xướng lên các bản nhạc có sức mạnh chữa bệnh, ngăn chặn cái ác…mà hình như có phần ngược lại, kích động cho những cái gì không đẹp cũng chẳng hay. Dĩ nhiên nói ra điều này phải xin lỗi giới làm nhạc chân chính.
Xin chứng minh, hãy vào các quán bán đĩa nhạc, để xem tên các bài hát: Người yêu tôi ông cũng không chừa, Người đàn ông không được quên hết tình nghĩa, Người đàn bà ích kỷ, Kiếp đàn bà thân xác đàn ông, Tình một đêm, Không còn gì để mất, Bên nhau dù không còn cảm giác, Yêu một người sống bên người khác, Anh chấp nhận là người tình thứ ba, Một lần nữa tôi bị lừa, Yêu một người là dại, Ăn bánh trả tiền...Ok, như vậy đi...
Thật là phản âm nhạc, âm nhạc theo cái nghĩa tận ngày xưa là nâng đỡ tâm hồn, giáo dục cái đẹp…Còn lời ca, mà thuật ngữ chuyên môn gọi là ca từ…Xin nghe một vài lời chẳng đẹp, chẳng trong sáng, dĩ nhiên cũng chẳng tình tứ nữa:
...Yêu một lúc đến hai ba bốn năm cô, là cho yêu như vậy là mới yêu! Người đàn ông tham lam mãi là anh, một bàn tay năm ngón anh chẳng biết chọn ai...
...Tôi tưởng em chỉ yêu thêm một người… Nào ngờ đâu ngoài tôi em còn ba người nữa(?!).. Cuộc tình tay ba đã khổ đau, giờ tay bốn làm sao...
...Anh có một sở thích kỳ lạ là ăn thịt thỏ... Nhưng mà anh chưa có cơ hội bỏ em vào nồi... Là tại vì anh đã lỡ yêu em mất rồi....
Người xưa dùng hai chữ thơ ca đi liền với nhau là có ý nhắc nhở: thi trung hữu nhạc (trong thơ có nhạc), nhạc trung hữu thi (trong nhạc có thơ). Nghĩa là nhạc phải có sự hiệp vần, ngắt nhịp, phối thanh...của thơ. Những lời ca từ trên không hề thơ: không chất thơ, chẳng tính thơ...Đơn giản chúng là ngôn ngữ của sự dung tục.
Nhạc sỹ N.Đ cho biết dựa theo tập thơ online Chẹc Chẹc của N. Đ. C và tác phẩm của Bùi Chát để viết 36 ca khúc. Thằng Mõ 1 là CD đầu tiên, gồm 9 bài: Cánh đồng cỏ khô, Ngũ sắc, Chọn một ngày, Thông điệp hoa hồng, Nàng thơ gõ cửa, Vĩnh biệt, Có những ngày, Khuyến mại tình dục, Cái nường 8x. Trong bài Cái nường 8x có câu: “Bẹn ơi, mông ơi, háng ơi, nọn nường ơi”. Trong bài Ngũ sắc, có những câu mà người tử tế nghe thấy đã đỏ mặt xấu hổ vì những ca từ trần trụi, thô thiển, tục tĩu…
Đây không phải là cá tính sáng tạo, chẳng phải “nổi loạn phá cách”, chẳng phải “ngông”… mà là một sự ngược đời cũ kỹ. Ở cái bài Cái nường 8x là sự tục tĩu, không cứ phải là nhà thơ hay nhạc sỹ mà một cậu mục đồng choai choai nào đó cũng có thể gọi tên và…“hát” về các bộ phận cơ thể như thế, thậm chí còn “hồn nhiên” hơn. Ở bài Ngũ sắc thì sự kết hợp của từ chỉ nghề nghiệp (ví dụ từ phóng đạn là từ gắn liền với thuật ngữ quân sự) với từ chỉ chức năng, biểu hiện sinh dục, sinh sản (như tinh trùng) thì không thể hay hơn truyện tiếu lầm dân gian…Nếu nói về linga và yoni, tức nhìn các bộ phận sinh dục nam và nữ dưới góc độ văn hoá phồn thực, thì các tín ngưỡng dân gian nói hay hơn nhiều, và dĩ nhiên, văn hoá hơn nhiều cách nói sống sượng trên. Đấy là còn chưa thể, và không thể so sánh với thơ của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, cũng nói về cái ấy, hành vi về chuyện ấy mà thật tao nhã, trong sáng, thánh thiện…
Đây chính là biểu hiện của một vài cá nhân nghệ sỹ không còn cá tính sáng tạo nên đi vào ngõ cụt đành quanh quẩn trong không gian kín mít, đen đặc với “Bẹn ơi, mông ơi, háng ơi, nọn nường ơi…”. Mà thôi!
Không thể “biện minh” nghệ sỹ cần một sự “tự do tuyệt đối” trong sáng tạo nghệ thuật. Không sa vào bàn luận khái niệm thế nào là “tự do tuyệt đối”, chỉ cần hỏi: Tại sao rất nhiều nghệ sỹ khác không cần “tự do tuyệt đối” như thế vẫn có những ca khúc mang tư tưởng thẩm mỹ đích thực, có giá trị sẽ còn sống mãi với thời gian?
Không thể coi đây “là cuộc chơi riêng” của nghệ sỹ. Bởi cũng chỉ cần hỏi: Nếu là cuộc chơi riêng thì “phát hành” làm gì, “tặng” làm gì… và nhận quà tặng để làm gì…?
Mỗi nghệ sỹ cần mài sắc cá tính sáng tạo bằng cách luôn miệt mài học tập kiến thức, trau dồi vốn sống, đi sâu vào thực tế để tìm ở đó cảm hứng và hình tượng mới mẻ để mà nhập thân…Người nghệ sỹ đích thực quyết không thể cho ra những sản phẩm dung tục, ngược đời, cũ kỹ.
QV
VNQD