. KIÊN PHÙNG
Trong lịch sử phát triển của văn học hiện đại, báo chí, xuất bản đóng vai trò quan trọng bậc nhất từ góc nhìn xã hội học văn học. Sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam từ ngày đất nước thống nhất góp phần quan trọng thúc đẩy văn học phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Có thể nói 50 năm từ ngày thống nhất đất nước, báo chí, xuất bản đã góp phần kiến tạo không gian thống nhất cho văn học, và từ đó dựa trên những điều kiện kinh tế thị trường thúc đẩy sự phát triển đa dạng, tự chủ của văn học.

1. Sau 1975, báo chí và xuất bản nói chung luôn có vai trò quan trọng của việc tạo nên sự thống nhất, xuyên suốt về địa lí cho quá trình phát triển văn học. Không gian văn học sau 1975 được kiến tạo và quản lí chặt chẽ để tạo nên sự ổn định của quá trình phát triển văn học. Báo chí tạo nên một không gian địa lí tưởng tượng thống nhất toàn quốc, cho phép các tác phẩm văn học được xuất hiện, lưu chuyển giữa các vùng miền. Báo chí và xuất bản giữ vai trò định hướng cho sự phát triển của văn học, thông qua các hoạt động quản lí của các cơ quan chức năng. Trong giai đoạn trước Đổi mới, báo chí đã đóng vai trò một kênh truyền dẫn những xung đột và mâu thuẫn của sự phát triển và vận động văn học. Các cuộc tranh luận nội bộ trong Hội Nhà văn cũng được “hé lộ” phần nào, tự phát hoặc tự giác, qua các bài tường thuật trên báo chí của Hội hoặc ở mục văn nghệ của những tờ báo khác. Tư duy đạo lí được thể hiện qua việc xuất hiện và tồn tại cả những tác phẩm được coi như “trái chiều” và có những phê phán gây tranh cãi, chẳng hạn những tác phẩm mang tính triết luận của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Cha và con...) Trong phê bình văn học, nổi lên một xu hướng nói rằng “văn học cách mạng của chúng ta còn nghèo nàn...” Đây là một luận điểm được thấy nhiều từ 1978 cho tới 1988. Sáng tác nghệ thuật rời bỏ tính luận đề để đi đến tính đời thường như một chiều kích khác của nghệ thuật đương đại. Điều này hiển nhiên chỉ diễn ra khi tư tưởng (tân) trọng nông đã không còn chiếm ưu thế, và nhường chỗ cho tinh thần thị trường. Chúng tôi thấy cần nói chính xác quan điểm cá nhân của mình rằng kinh tế không phải cơ sở sine qua non (tiền đề bắt buộc) cho sự phát triển của văn học, mà chỉ thúc đẩy hoặc kìm hãm những điều đã được manh nha và nảy mầm như những khả thể được đồng bộ.
2. Kể từ sau 1986, đặc biệt rõ rệt là sau 1990, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần bắt đầu phát triển. Song việc đánh giá mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với sự vận động của văn học nghệ thuật không phải luôn thuận chiều. Phan Trọng Thưởng trong một báo cáo tổng kết về văn học nghệ thuật cho rằng: “Nhìn chung, sự đánh giá của chúng ta vẫn thường thiên về đổ lỗi, quy lỗi cho cơ chế thị trường nhiều hơn, dễ hơn là ghi nhận những mặt tích cực của nó.”(1) Ông chỉ ra một số tác động như sự hiện diện của những đề tài mới, những tiểu loại miễn là không vi phạm pháp luật. Bên cạnh động lực chính trị xã hội như trước đây còn có động lực lợi nhuận, nó góp phần “tạo ra mối quan hệ gắn kết quá trình lao động sáng tạo của nghệ sĩ với công chúng và thị trường”(2), vì “thị trường là con đường ngắn nhất đến với công chúng”(3). Dĩ nhiên, mặt tích cực luôn đi kèm mặt tiêu cực bởi tính vụ lợi mà thị trường buộc nghệ thuật phải đi theo. Mối quan hệ giữa kinh tế với nghệ thuật hay văn học không hề và không bao giờ là quan hệ nhân quả. Sự cởi mở về tư duy kinh tế đi song hành với sự cởi mở về tư duy chính trị, và cùng với đó là tư duy về nghệ thuật. Sự cởi mở này đưa đến sự phát triển của thể loại phóng sự và kí sự trên báo chí thể hiện quyền lực của báo chí và truyền thông khi đề cập đến một số hiện tượng mang tính thời sự cao: trên báo Văn nghệ có Đêm trắng của Võ Văn Trực, Cái đêm hôm ấy... đêm gì? của Phùng Gia Lộc... Cùng thời kì này là một loạt sáng tác sân khấu của Lưu Quang Vũ do Nguyễn Đình Nghi và Phạm Thị Thành đạo diễn.
Nền kinh tế thị trường đồng thời mang đến một sự bình đẳng cho mọi tác nhân. Những thành tựu kinh tế của giai đoạn 1986 - 2005 cho thấy rõ sự phù hợp của kinh tế thị trường, của sự đa dạng và bình đẳng trong thành phần kinh tế. Một số đặc điểm của hành vi xã hội cũng như thái độ trong nghệ thuật của giai đoạn đổi mới nền kinh tế mở: sự bình đẳng, sự đa dạng, sự cá nhân hóa. Ba đặc điểm này thực chất đều là một bởi tính chất liên hệ hữu cơ. Sự bình đẳng các chủ thể và đối tượng tạo ra sự đa dạng trong cách biểu hiện và các quan hệ, từ đó cho phép sự cá nhân hóa và cá thể hóa. Một kết quả của sự thay đổi những quan hệ này là sự ra đời của Luật Xuất bản vào năm 1993, góp phần tham gia vào điều chỉnh một cách khách quan các quan hệ xã hội. Trong một chiều kích ngược lại, sự cá nhân hóa chỉ hình thành khi có một sự bình đẳng giữa các tác nhân và do đó thúc đẩy sự đa dạng hóa. Sự bình đẳng được ý thức này đưa đến nhiều hệ quả quan trọng trong tư duy xã hội nói chung, trong nghệ thuật nói riêng. Đối với văn học, đó là những sự thay đổi các quan hệ ở nhiều phương diện khác nhau: đề tài, thể loại, thị hiếu thẩm mĩ, người đọc, người viết... Những phương diện này lại có các quan hệ đan cài vào nhau xét từ góc độ xã hội học văn học. Chẳng hạn không còn sự phân biệt giữa đề tài quan trọng phải nói đến đạo lí với đề tài về đời sống bình thường. Sự phong phú về đề tài gắn với sự phong phú về thị hiếu thẩm mĩ trong văn học đương đại. Không còn nhiều sự phân biệt giữa những người tham gia vào các hiệp hội nghề nghiệp do Nhà nước tổ chức (Hội Nhà văn) với những người viết tự do. Sự phát triển của thị trường văn hóa, trong đó có văn học, đã làm hình thành những người viết chuyên nghiệp mà không nhất thiết phải là thành viên của Hội Nhà văn. Tính chất không thuần nhất người sáng tác cho thấy rõ sự đa dạng và bình đẳng cũng như việc chuyên môn hóa nghề nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Những điểm này đưa đến sự đa dạng của lựa chọn thể loại bởi người viết vì họ không nhất thiết phải tuân theo các yêu cầu “lí thuyết/lí luận”, mà là theo những đòi hỏi hoặc của thị trường, hoặc của những ý tưởng, mong muốn và khả năng cá nhân. Một trong những điểm có thể được giả định trong mối quan hệ giữa nghệ thuật với kinh tế là sự nở rộng của thể loại truyện ngắn trong giai đoạn Đổi mới. Thực thế, truyện ngắn cũng nhanh chóng đạt đến độ rực rỡ, với sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài và hàng chục tác giả xuất sắc khác, như Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh, Trần Đức Tiến, Phạm Ngọc Tiến, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Hòa Vang, Nguyễn Thị Minh Thư, Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ... “Người ta hay cắt nghĩa hiện tượng này dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, ở phẩm tính ưa những cái đẹp nhỏ nhắn, hài hòa, tinh tế và/hoặc dựa vào tâm lí sáng tạo của nhà văn Việt Nam, cũng ở tài năng tỉa tót, đẽo gọt những cái đẹp nhỏ nhắn, hài hòa, tinh tế.”(4) Song nếu thực hiện một thống kê cho điều kiện in ấn và xuất bản đương thời, hẳn có thể còn nêu ra một lí do khác liên quan đến điều kiện kinh tế. Văn học là một thị trường hàng hóa chứ không chỉ phục vụ nhu cầu tinh thần một cách thuần lí thuyết. Sự bùng nổ của kinh tế tư nhân cho phép xuất hiện nhu cầu công bố, in ấn và khả năng thu hồi vốn từ thể loại cơ động nhất này. Chính truyện ngắn có nhiều cơ hội nhất để đến với bạn đọc thông qua báo chí chứ không phải tiểu thuyết.
Sự bùng nổ của văn học dịch thời kì Đổi mới là một trong những ví dụ của vai trò kinh tế đối với sự phát triển của văn học đương thời. Đoàn Ánh Dương cho biết, trong năm 1986 có tới gần hai vạn bản in cho bản dịch Trăm năm cô đơn của G.Marquez được thực hiện tại hai miền Nam Bắc(5). Ông cũng có nhận xét thú vị về mối tương quan giữa văn học với điện ảnh trong điều kiện kinh tế thị trường cũng như sự vận động của thẩm mĩ đương thời: “Các dịch phẩm văn học này cũng có được hiệu ứng của sự “bung ra” của thị trường sách những năm đầu Đổi mới. Với một hệ thống xuất bản và phát hành tư nhân dưới danh nghĩa Nhà nước thời kì này, có đủ mùi vị huyền ảo và tính dục, dù không thể trộn lẫn với văn học dung tục đương thời, văn học Mĩ Latin vẫn đã chinh phục được bạn đọc rộng rãi. Mà trong số bạn đọc đại chúng ấy, đại đa số đều là “khán giả trung thành” của phim truyện truyền hình, nhất là trước Nô tì Isaura, Đơn giản tôi là Maria, Người giàu cũng khóc, ba bộ phim (lấy chất liệu) Mĩ Latin nhanh chóng được phổ cập và gây thành cơn sốt nhờ sự phổ rộng của truyền hình, lại cũng chính là nơi phổ biến nhiều hơn hết công nghệ hoa hậu Venezuela.”(6) Về mặt thị hiếu, đó là sự đa dạng thị hiếu của người đọc, điều có thể gây ra nhiều tranh cãi.
Trong giai đoạn từ 2000, đặc biệt là từ 2010, văn học mang tính thị trường đặc biệt phát triển mạnh. Sự xuất hiện và phát triển mạnh của các nhà sách, các công ty văn hóa phẩm như Nhã Nam, Sao Bắc, Tao Đàn, Đông A, Thái Hà, Omega... đã mang đến một diện mạo mới cho thị trường sách nói chung và văn học nói riêng. Đó trước hết là sự phong phú của đầu sách văn học với nhiều nội dung, chủ đề và đề tài. Tính chất cạnh tranh sách như một sản phẩm văn hóa thị trường đã khiến cho cuốn sách không chỉ dừng ở nội dung được lựa chọn, mà còn có sự phát triển của hình thức. Sự đa dạng trong cách trình bày cuốn sách văn học đã mang đến cho sách văn học một diện mạo mang tính mĩ thuật chứ không còn chỉ là một sự minh họa như trước đó. Mỗi công ty văn hóa phẩm đều có một chiến lược riêng để tạo ra các dấu ấn, định vị các tập khách hàng riêng của mình. Nhã Nam hướng đến sự kết hợp giữa các văn hóa phẩm đại chúng với văn hóa phẩm mang tính tinh hoa khi xây dựng Tủ sách Kinh điển. Nhà sách này cho xuất bản các bản dịch kinh điển, hoặc tái bản những tác phẩm quan trọng của văn học Việt Nam trước 1945. Tao Đàn lại tập trung hướng đến một lượng độc giả hẹp và có lựa chọn hơn khi dịch và xuất bản sách văn học được coi là quan trọng của một số nền văn học, bao gồm cả kinh điển lẫn kiệt tác. Omega hướng đến một số tủ sách khai phá. Có thể nói rằng xuất bản sách văn học không còn thuộc độc quyền của Nhà nước, và như vậy làm tăng thêm tính đa dạng, cá nhân hóa và bình đẳng của sách văn học. Đã hình thành một thị trường có tính tự chủ về cơ bản sách văn học cho phép nó tự sống, có sản phẩm để “nuôi sống” chính nó. Thị trường sách văn học, có gốc gác từ kinh tế thị trường, đã trở nên có tính tự chủ. Đó là tiền đề cho tính đương đại cũng như cho phép sách văn học Việt Nam có thể mang tính quốc tế, tính toàn cầu. So sánh với thị trường sách giai đoạn vừa sau Đổi mới có thể thấy những sự giống nhau và khác nhau. Sách văn học ngay sau khi Đổi mới cho phép cởi mở đã tức thì trở thành một “mỏ vàng” để những nhà cai thầu khai thác triệt để như trường hợp một số bản dịch văn học Mĩ Latin hay một số cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn khá ăn khách của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh. Những nhà cai thầu này khai thác chứ không hướng đến sự phát triển của thị trường sách. Do vậy, sự khác biệt của thị trường sách văn học từ sau năm 2000 nằm ở chỗ các nhà sách đã có ý thức hoặc không hoàn toàn tạo ra một quan hệ cân bằng nhất định giữa các sản phẩm đại chúng mang tính thị trường thuần túy với những sản phẩm văn học có tiêu chuẩn mĩ thuật nhất định. Những quy luật kinh tế thị trường tham gia rất sâu vào thị trường sách để tạo nên một trường văn học tự chủ. “Trong cơ chế thị trường, để tồn tại, để có chỗ đứng chân, có cơ hội phát triển, các thành phần nghệ thuật đều phải cạnh tranh, phải giành giật thị phần, giành giật khán giả và công chúng để kiếm sống. Đó là động lực mới của văn học, nghệ thuật.”(7)
Nền kinh tế mở trao cho mỗi người, trong đó có mỗi nhà văn, một cái nhìn mới. Xuất hiện sự “bá quyền” của góc nhìn kinh tế, tài chính trong việc xem xét và đánh giá mỗi cá nhân hay mỗi tác phẩm, hiện tượng văn học. Sự bá quyền này tạo trao một chiều kích khác cho một hoạt động nhân văn, đó là sự khách quan hóa tối đa của hoạt động tài chính. Bản thân các hành động trong trường văn học (đọc, sáng tác, sản xuất, phát hành….) theo nguyên lí tài chính là tối hậu cũng đã bao hàm một sự chấp nhận tính chất bá quyền của tư bản, của đồng tiền, của kinh tế. Kinh tế tư bản dựa trên nguyên tắc cá nhân hóa cao độ, và như vậy người viết cũng như người đọc, người phát hành cũng như người in ấn đã tự nguyện tham gia vào guồng quay tư bản của hoạt động văn học như một hoạt động sinh lời. Nền kinh tế tư bản tương ứng với một kiểu văn học cá nhân, đòi hỏi bình đẳng, vì thế tôn trọng sự đa dạng và khác biệt. Song điều này chỉ thực sự rõ nét khi kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế quốc tế, và khi văn học Việt Nam tham gia vào nền văn học thế giới.
Văn học Việt Nam giai đoạn chuyển từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã đổi mới dựa trên sự năng động của các hoạt động xuất bản và báo chí. Khi kinh tế thị trường phát triển từ sau 1986, sự đa dạng của các phương diện nghệ thuật được khuyến khích nhằm đạt đến lợi ích kinh tế tối đa trong các hoạt động xuất bản. Nhưng ngay cả trong thời kì trước 1986, những chuyển động của xã hội đã tìm được những tiếng vọng tương ứng trong các tìm kiếm đổi mới nghệ thuật của sáng tác văn học giống như quá trình “xé rào” của kinh tế. Chính báo chí cùng với hoạt động xuất bản thời kì Đổi mới đã góp phần quan trọng để văn học nhanh chóng tìm kiếm những sự tự chủ của riêng mình trong nền kinh tế thị trường
K.P
-------
1, 2, 3, 7. Phan Trọng Thưởng, Nhận diện và lí giải các hiện tượng văn học, Nxb Văn học 2021, tr.170, tr.172, tr.173, tr.65.
4, 5, 6. Đoàn Ánh Dương, Sáng tạo trong tình thế chuyển đổi, Nxb Hội Nhà văn 2020, tr.84, tr.128, tr.131.
VNQD