William Faulkner đã từng viết về quê hương Mississippi của mình trong cuốn tiểu thuyết Khi tôi nằm chết như sau: “Đây là một cái tệ của đất nước này: mọi thứ, thời tiết, tất cả, dai dẳng quá chừng. Giống như những con sông, những dải đất của chúng ta: mờ mịt, chậm chạp, hung dữ, định hình và tạo nên cuộc sống của con người theo hình ảnh bầy đoàn khôn nguôi của nó”([i]). Nếu vậy thì liệu dân chúng và những cảnh quan có thay đổi không, giống như những gì ông viết vào năm 1930?
Faulkner, theo đó, đã gọi Hạt Lafayette, quê hương của mình, là “tiếng vang cuối cùng của màu xanh lam đang hấp hối của dãy Appalachian”. Và đúng như vậy khi ta đi dọc sống lưng của dãy núi cao về phía tây nam từ đỉnh Harpers Ferry, sau thời tiết mát mẻ và dễ chịu, ta sẽ thấy được cái nóng của miền bắc Mississippi một khi xuống đến Tennessee. Lafayette cũng chính là nơi cuối cùng có những ngọn núi đáng kể. Sau đó nếu lái xe thêm một giờ về phía tây, vùng đồng bằng châu thổ bằng phẳng sẽ liền hiện ra.
Trong không gian đó, Rowan Oak, nơi Faulkner sống từ năm 32 tuổi đến khi qua đời ở tuổi 65, nằm ngay bên ngoài trung tâm thành phố Oxford. Nó được bao quanh bởi một rừng cây, do đó ta sẽ không thấy từ con đường chính. Từ bãi đậu xe bẩn thỉu, ta sẽ đi bộ qua một khu rừng nguyên sinh. Ở đây có một lối đi dài và rộng với hàng tuyết tùng đỏ thơm được trồng vào những năm 1870 khi chúng được cho là có tác dụng chống lại bệnh sốt vàng da. Lối đi bộ này sẽ dẫn đến một ngôi nhà lớn màu trắng, nơi mà như hầu hết mọi chốn ở Oxford, hết dãy nhà này đến dãy nhà khác đều là những kiến trúc theo lối thuộc địa nằm khiêm tốn trên những khu đất nhỏ xanh tươi. Nhưng tại Rowan Oak, phong cảnh trang viên vẫn như trong các mô tả của William Faulkner nhiều thập kỉ trước.
William Faulkner bên căn nhà ở Rown Oak vào năm 1947. Chụp bởi Henri Cartier.
Ngôi nhà ván hai tầng của nhà văn đoạt giải Nobel 1939 này được xây dựng vào năm 1844 bởi William Turner, và cũng đã truyền cảm hứng cho nơi ở của nhà Compson trong cuốn Âm thanh và Cuồng nộ. Rowan Oak không hoành tráng bằng nhà Compson, mà giống như bản vẽ thô của một ngôi nhà Phục hưng Hy Lạp với bốn cột theo thức Doric mà ở giữa chúng là những bức tường không trang trí gì. Nó bị che khuất khỏi ngôi làng xung quanh, mang vẻ tách biệt và có thể phải cần một chút nỗ lực để vào hoặc tránh xa nó.
Đi vòng quanh ngôi nhà ngược chiều kim đồng hồ, ta thấy những nhà xông khói bằng gỗ mà Faulkner dựng lên trên đống đổ nát của các khu nhà từng dành cho người nô lệ. Đây đó cũng là những chuồng nuôi bằng gỗ sồi mà ông xây cho đàn bò và những con ngựa của mình. Ông thích cưỡi ngựa và đã tham gia hai câu lạc bộ săn cáo khi đang là một Nhà văn nội trú tại Đại học Virginia, và cũng chính cú ngã ngựa ở Rowan Oak là một yếu tố quan trọng dẫn đến cái chết sớm của ông, bởi do vết thương mà ông khó lòng tỉnh táo được.
Ở phía bên phải của ngôi nhà, có hàng hiên, nơi một buổi tối, khi đứng dưới bóng râm, vợ của Faulkner, Estelle, đã gợi cho ông nhan đề của một trong những cuốn tiểu thuyết của mình khi nhận xét rằng có điều gì đó bất thường về chất lượng ánh sáng vào tháng 8. Tuy thế kết thúc của sự kiện ấy là bà đã ném bản thảo Nắng tháng tám ra khỏi cửa sổ của xe đang chạy (có người cho rằng là do ghen tuông trong một cuộc ngoại tình), khiến cho nhà văn phải tấp vào lề và gom lại từng trang một.
Căn nhà giữa những rừng cây.
Đúng thật là khi ở đó vào tháng 8, ta sẽ hiểu ý của Estelle đang nói là gì. Khi đó độ ẩm quá cao khiến những tia nắng có vẻ nhớp nháp như được ngào đường. Nhưng trong tiền sảnh thì lại mát mẻ và hơi lờ mờ. Trước khi bước vào không gian sáng tạo của nhà văn này, bạn sẽ được gặp một sinh viên mới tốt nghiệp ngồi trên chiếc ghế và thu lệ phí 7 dollar của các du khách tham quan.
Thư viện phía trước ngôi nhà, nơi Faulkner đã viết Nắng tháng Tám và Absalom, Absalom!, có những giá sách đẹp đẽ mà ông tự đóng, với những ngăn đặc biệt để đựng đạn súng. Trên các bức tường là những bức tranh theo kiểu Naive art, mà trong số đó có một tác phẩm của mẹ Faulkner, quý bà Maud, chân dung của ông và ông nội Maud trong bộ đồng phục Liên minh miền Nam. Khi thoáng qua thì hai người đàn ông đều có nét mặt buồn bã, dịu dàng khá tương đồng nhau. Đi dọc hành lang ta sẽ đến được phòng làm việc phía sau, nơi Faulkner viết tiểu thuyết cuối cùng của mình. Cốt truyện của cuốn A Fable trưng bày ở đó vẫn đang được phác thảo bằng bút chì và mực trên tường.
Tuy nhiên ta không thể đi lên cầu thang, đến phòng ngủ riêng của Faulkner, mà không nghe thấy tiếng vọng từ nhà văn vĩ đại miền Nam Allan Gurganus, một trong số rất ít tiểu thuyết gia có thể được coi là người kế tục Faulkner, mô tả những phòng ngủ đó bằng chất giọng trầm, đi từ êm dịu cho đến say mê trong các tiết học. Ông nói: “Đây là ngôi nhà được chia sẻ giữa hai người nghiện rượu coi thường nhau. Anh uống whisky, cô uống rượu vang. Và để tôi kể cho các bạn nghe, các chàng trai và những cô gái…” Đến đây, Allan nghiêng người về phía trước và dừng lại để nhìn vào mắt từng người sinh viên. “Bạn vẫn nếm được sự suy vi ấy trong bầu không khí...”
Bên trong căn nhà của Faulkner.
Bằng chứng duy nhất về sự bất hòa trong phòng ngủ của Faulkner là chiếc điều hòa không khí ở cửa sổ trong phòng của Estelle, được lắp chỉ một ngày sau đám tang của ông, vì vị văn sĩ đã từng ghét điều hòa đến mức không cho vợ mình lắp nó khi ông còn sống. Đi xuống hành lang đến ban công, trời bắt đầu mưa, đầu tiên là lất phất, sau đó nhanh chóng mưa như trút nước. Nó tỏa ra mùi của cây tuyết tùng. Khi mưa tạnh, hơi nước bốc lên từ bãi cỏ và khu vườn hình tròn, từ giàn bách hợp cho đến những hoa tử đằng.
Đây là một nơi tuyệt đẹp. Nhưng khi Faulkner và gia đình mình chuyển đến, nó thì hoang tàn và nản lòng hơn. Theo đó ngôi nhà từng được thắp sáng bằng đèn dầu và sưởi ấm bằng lò gang trong nhà bếp. Con gái riêng của Faulkner, Cho-Cho, đã kể lại rằng “dinh thự này gần như đổ sập hết cả, xung quanh chỉ toàn bụi rậm, hố xí ngoài trời và những con rắn. Nó cũng không hề có điện và hệ thống ống nước.” Nhưng Faulkner là người có niềm đam mê tự làm việc nhà. Do đó ông đã bổ sung thêm các tiện nghi trong suốt những năm 30 và 40, trong giai đoạn thực hiện các kịch bản phim ở Hollywood.
Dĩ nhiên, Faulkner là người đã nói, “Quá khứ không bao giờ chết. Nó thậm chí không phải là quá khứ”. Rowan Oak theo đó cũng đã lưu giữ lại những bằng chứng về việc ông đã buộc phải sống trong một ngôi nhà có nhiều lịch sử từ thời xa xưa, tương tự với nhà Compsons trong Âm thanh và Cuồn nộ, Joanna Burden trong Nắng tháng Tám và Henry Sutpen trong Absalom, Absalom! ra sao. Giờ đây ẩn trong không khí của thời hiện đại, ta vẫn đang thấy tất cả mọi thứ, từ những công trình nông nghiệp phụ mà ông dựng lại cho đến chiếc máy điều hòa không khí mà ông từng cấm sử dụng. Đâu đó là những đôi ủng cưỡi ngựa, trong khi khu rừng bao quanh khiến tiếng ồn ào của xe qua lại dường như tan biến.
NGÔ THUẬN PHÁT lược dịch từ bài viết của Benjamin Nugent trên The Paris Review
-------------------
1. Bản dịch của Hiếu Tân.
VNQD