. THANH THẢO
Làm báo đã thành nghề nghiệp của tôi. Tôi đã hành nghề báo tới nay khoảng 55 năm. Tôi làm báo trong chiến tranh là phục vụ, còn từ hòa bình tới nay là để nuôi sống bản thân và gia đình mình. Còn giúp được những người nghèo khổ yếu thế. Chuyện làm báo cũng khá dài dòng, xin được kể lại vài ba đoạn vui vui hầu bạn đọc…
Làm báo trong rừng
Vào tháng 1/1971, tôi vào chiến trường Nam bộ, được điều về Tiểu ban Tuyên truyền Ban Binh vận (B6) Trung ương Cục (bí danh là R - tức là Rừng). Bài báo đầu tiên của tôi viết cho hai đài: Giải phóng và Tiếng nói Việt Nam, là bài báo về số phận đau buồn của một sĩ quan cấp úy quân đội Sài Gòn. Khi gửi bài báo sang đài Giải Phóng, ông Tám Trí, phụ trách tổ thường trú Binh vận ở Đài sau khi đọc bản thảo đã viết thư cho ông Hai Vân - Trưởng Tiểu ban tuyên truyền Ban Binh vận nói ông chưa biết Thanh Thảo là ai, nhưng đọc bài viết thấy tâm đắc quá. Ngay từ đó, tôi đã lọt được vào mắt xanh của mấy vị lãnh đạo này và họ để cho tôi tự do chọn đề tài, những bài viết của tôi không cần quá thời sự, miễn là đọc có cảm giác dễ lọt tai sĩ quan binh lính trong quân đội Sài Gòn là được. Viết báo mà đối tượng nghe những bài báo của mình lại ở phía bên kia thật ra không hề dễ. Chính thơ đã giúp tôi vượt bức tường ngăn cách ấy, nhờ những xúc cảm, đồng cảm, chia sẻ hồn nhiên của người làm thơ được thể hiện trong những bài báo.

Nhà thơ, nhà báo Thanh Thảo
Đến tháng 5/1971 tôi về thường trú bên Đài Giải phóng (Đài thành lập ngày 1/2/1962 tại khu rừng Mã Đà thuộc chiến khu Đ, hoạt động bền bỉ cho tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng). Khi này, ở Đài - giữa rừng già đã tồn tại cả một Ban Biên tập với đầy đủ phóng viên, biên tập viên. Nói về công việc hàng ngày của Đài thì rất bài bản. Giờ nào việc ấy rất nghiêm túc. Buổi sáng sớm, anh em phóng viên chúng tôi đã dậy, ăn sáng qua loa, rồi uống trà. Trà ngày đó là trà củ măng, quản lí mua ở cửa khẩu về chia lại cho anh em nghiện trà. Những bàn trà được gầy lên mỗi sáng trong rừng là một nét độc đáo của chiến khu. Anh em phóng viên uống xong tuần trà thì giám đốc kêu lên họp. Mỗi sáng đều có họp giao ban nghiêm túc như vậy. Giám đốc hồi ấy là ông Hai Xuyên, nhưng ông Sáu Hà mới là người chịu trách nhiệm chuyên môn. Ông Sáu Hà có thâm niên trong nghề, nên cách góp ý bài vở với đám phóng viên chúng tôi rất được anh em tiếp thu.
Phần quan trọng nhất trong họp báo mỗi sáng là phân công cho phóng viên chắc tay viết bài bình luận thời sự. Tôi cũng được chọn trong số những người viết bình luận thời sự đó. Tôi chuyên viết bình luận về mảng binh vận. Rồi cuộc họp báo buổi sáng kết thúc, ai về lều người ấy, bắt đầu làm việc. Ai viết nhanh thì buổi trưa trước giờ ăn cơm đã có bài nộp cho ông Sáu Hà duyệt. Bài được duyệt sẽ đánh tê-lê-tip ra Hà Nội để lên sóng.
Khi làm báo ở Đài, chúng tôi có một nhóm anh em thân thiết, gồm Lê Điệp, Vũ Ân Thy và tôi từ Hà Nội vô, Kha Lương Ngãi và chị Tuyết Nga từ Sài Gòn lên, mỗi người ở một tiểu ban, nhưng trong rừng thì nhà cửa gần nhau, cùng là phóng viên, nên rất thân thiết. Nói thêm về chị Tuyết Nga. Chị là em ruột chị Tố Nga, người những năm gần đây đã nổi tiếng thế giới về vụ kiện những công ty và chính phủ Mĩ sản xuất, rải chất độc da cam trên toàn miền Nam, đưa lại biết bao thảm họa cho cả hai phía tham chiến và dân thường. Chị Tuyết Nga là phát thanh viên đầu tiên của Đài, năm 1962, sau đó chị về hoạt động bí mật trong nội thành Sài Gòn, rồi bị lộ phải ra lại chiến khu, về làm phóng viên Tiểu ban Phụ nữ của Đài.
Kỉ niệm nhớ nhất khoảng thời gian này là cứ buổi trưa tôi với Lê Điệp lại kéo nhau ra suối câu cá. Con suối này tương đối sâu, nên cá khá nhiều, chủ yếu là cá đỏ đuôi. Chúng tôi kiên trì ngồi buông cần, không phải câu cá để thư giãn, hay để nghĩ chuyện lớn, mà chăm chắm câu kiếm cá cho bữa cơm chiều. Dạo đó thức ăn nhà bếp quá hẻo, tôi với Lê Điệp mặt thằng nào cũng xanh lét do sốt rét và ăn thiếu chất, nên câu cá cải thiện là việc cần làm ngay. Thường ngồi suốt buổi trưa như thế, mỗi thằng cũng câu được dăm con cá đỏ đuôi, loại cá bé tẹo bằng hai, ba ngón tay, nhưng như thế là tươm lắm rồi, có thức ăn cho bữa chiều rồi. Thậm chí, hơn cả thức ăn, đó có thể là mồi nhậu, nếu có tiền mua rượu đồng bào phum sóc. Mà muốn có tiền, tôi với Lê Điệp phải lên phòng y tế của Đài xin thuốc sốt rét, và thật thà khai báo là bị suy kiệt trầm trọng. Chị y sĩ khá dễ tính, cho thuốc lại còn kèm theo đơn xét bồi dưỡng. Tôi với Lê Điệp mỗi thằng được 100 riel (tiền Campuchia). Quá tốt! 200 riel này có thể mua được hơn 2 lít rượu đồng bào. Chúng tôi tiêu từ từ, mỗi lần ra phum sóc lại mua nửa lít. Cứ thế, mỗi bữa chiều chúng tôi kêu thêm vài thằng bạn nữa, mồi nhậu là cá câu được, rượu đồng bào nửa lít, đủ lai rai rồi. Nhậu xong tối xuống hầm ngủ, tránh bom B52.
Nhưng có câu kéo thế nào thì cũng vẫn đói, đói triền miên. Những lúc ấy tôi với Lê Điệp hay kéo qua nhà sàn anh Hải. Anh Hải đây là Nguyễn Ngọc Hải, anh này vốn là cựu sinh viên Khoa Văn trường Tổng hợp Hà Nội, như thế là đồng môn với tôi, dù anh Hải học trên tôi 4 hay 5 lớp gì đó. Học xong, anh vừa về một cơ quan ở Hà Nội thì được động viên đi bộ đội, vào chiến trường, làm lính trơn. Anh vào B2 khá sớm, công tác ở Phòng Tuyên truyền của sư đoàn, cũng đã lăn lộn qua nhiều chiến dịch, cuối cùng, về Đài làm Biên tập viên Ban Văn nghệ. Anh Hải thích chơi với chúng tôi vì hai thằng tôi - để có gì ăn - rất chịu nghe chuyện của anh, mà anh thì chỉ có mỗi nhu cầu trút bầu tâm sự rất linh tinh. Kệ. Còn nhớ, những món ăn được ở nhà anh Hải thường rất… dị. Chẳng hạn món cơm rang. Cơm ăn thừa anh Hải tích trữ không biết qua bao nhiêu ngày, còn mỡ để chiên thì lí lịch hết sức tù mù, chắc chắn là không được vệ sinh cho lắm. Anh Hải có thói quen nằm trên nhà sàn một mình, radio mở rất to, đài Giải phóng hay đài Hà Nội gì đó, anh cứ nằm, một tay cầm đũa liên tục khuấy đảo chảo cơm rang, mắt lơ mơ chả biết thức hay ngủ, còn cái radio thì nó kêu cho vui thôi chứ anh cũng chả nghe. Những lúc đó, tôi với Lê Điệp nhẹ nhàng đến với anh, và anh Hải bật dậy như một người lính… choàng tỉnh: “Cơm rang nhé!” “Vâng, thì cơm rang”. Ba chúng tôi hì hụi với nhau, mỗi người một bát cơm rang “made in Ngọc Hải”. Lúc đói thì ăn gì chả ngon. Chuyện linh tinh như tép nhảy. Thường những lúc ấy, đột ngột anh Hải bảo: “Các cậu đưa tớ mượn khẩu K54!” Hỏi anh mượn súng làm gì, anh Hải nói: “Các cậu ở nhà, mình ra phum sóc đồng bào xem có rượu mua vài xị, anh em mình lai rai”. Súng ngắn thì có ngay, nhưng tôi với Lê Điệp vẫn hỏi thêm: “Đi mua rượu chứ có phải đi chiến trường đâu mà ông đeo súng ra phum?” Anh Hải cười cười bẽn lẽn: “Mình đeo súng ngắn để bà con bán rượu tốt hơn và rẻ hơn”. Ra thế! Thêm một tính năng mới của súng ngắn K54 mà anh Hải dạy chúng tôi: đeo súng ngắn đi shopping thì mua được rượu tốt hơn, rẻ hơn. Thực ra, chúng tôi biết anh Hải mượn súng ngắn đeo cho… oai, nhằm giải quyết khâu oai là chính. Nhìn anh nai nịt quân phục, mũ tai bèo, thắt lưng súng ngắn, độc hành ra phum sóc mua rượu, thật không nhịn được cười…
Chúng tôi cùng làm việc với nhau hơn một năm, cho tới mùa hè đỏ lửa năm 1972 thì chia tay, đi xuống làm phóng viên trực tiếp ở các chiến trường…
Những ngày ở Mỹ Tho
Khi xuống chiến trường Nam lộ Bốn Cai Lậy (Mỹ Tho) năm 1972, tôi được thỏa sức trải nghiệm, được sống giữa lòng nhân dân. Với người làm báo, đó là cách mình thu nhận dữ liệu tốt nhất để có thể hoàn thành những bài báo ưng ý.
Nhiều đêm, cùng ngọn đèn lu, dưới trang thờ ngoài sân, tôi và bác chủ nhà đối ẩm. Ve rượu bằng sành hay sứ cổ, hai chén hạt mít, không mồi nhậu, hai bác cháu chuyện trò nhỏ nhẹ. Bác chủ nhà tóc búi củ hành, cử chỉ đĩnh đạc của một người từng theo Nho học, nói những câu nửa Nôm nửa Hán, mình phải vừa nghe vừa… đoán, chứ đâu biết chữ Nho. Chuyện rất lan man, dài như cuộc rượu giữa hai người, một già một trẻ. Có thể nói, đó là những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của tôi, khi được nghe rất nhiều chuyện xưa có nay có, được nhìn ngắm thật gần hình ảnh một người “dân mộ nghĩa” Nam Bộ, một người khai mở đất phương Nam. Tôi đã tích lũy được bao nhiêu điều từ những cuộc nhậu không ồn ào như thế.
Ở đây, tôi luôn rạch ròi giữa thơ và báo. Nhưng những cảm nhận, những xúc động của người làm thơ đã ảnh hưởng rất nhiều tới cách viết những bài báo của tôi. Với tôi, những bài báo vẫn có thể đầy xúc cảm. Hóa ra, với kênh tuyên truyền binh vận, cách viết ấy lại rất đắc địa. Sự chân thành, những tình cảm nhiều khi mộc mạc nhưng thấm thía, là những gì làm nên sức thu hút của những bài báo thuộc đề tài này. Nhất là khi tôi viết về đề tài hòa giải hòa hợp dân tộc. Tôi đã viết bằng tất cả tình cảm của mình.
Ngày ở chiến trường Mỹ Tho, tôi chỉ viết được ba bài báo, hai bài được in ở báo Ấp Bắc, còn thì đều được báo vụ tê-lê-tip lên Ban Binh vận, rồi được chuyển ra Hà Nội cũng bằng tê-lê-tip, được đọc trên hai đài phát thanh: Giải Phóng và Tiếng nói Việt Nam, thế là xong việc. Đâu phải như bây giờ, viết một bài có thể bấm một phát đi khắp toàn cầu. Nhưng hồi đó, phải rất phục các anh chị báo vụ. Họ gửi bài bằng tê-lê-tip, nhưng rất ít khi sai sót. “Chuẩn không cần chỉnh” là những bài báo được chuyển từ chiến trường hay chiến khu ra Hà Nội. Tác giả chỉ cần mở radio là nghe được bài viết của mình, không sai một chữ. Thú thật, nhiều đêm nằm trong rừng nghe những bài viết của mình phát trên đài, cũng lâng lâng xúc động. Làm báo, không có nhuận bút, thì cũng có cái gì để bù vào, ít nhất động viên tinh thần mình. Tôi đã thành một nhà báo như thế...
Làm báo trong hòa bình
Kể từ sau năm 1975, tôi được làm báo trong hòa bình, không còn chịu cảnh bom rơi đạn nổ. Những thách thức khi làm báo trong hòa bình thực ra không hề nhỏ. Nhưng tôi đã cố gắng vượt qua. Một trong những nhà báo giúp tôi nhiều trong nghề báo là nhà báo Chánh Trinh.
Anh là một nhà báo đã hành nghề báo đúng nghĩa ở cả hai chế độ. Và, dù làm báo đối lập thời Việt Nam Cộng hòa, hay làm báo thời Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì Chánh Trinh vẫn giữ nguyên một nhiệt tình cháy bỏng với nghề nghiệp. Có thời gian vào cuối những năm 90 của thế kỉ trước, anh buộc phải thay đổi báo liên tục, lúc làm báo này, lúc lại khởi xướng ra báo khác. Dĩ nhiên đều là báo nhà nước, nhưng nếu không có anh cầm chịch chuyên môn ở vai trò thư kí tòa soạn, thì gần như tờ báo ấy khó chào đời, càng khó hơn để có thể sống được trong cơ chế thị trường. Mà báo anh làm thì phải bán ra sạp, chứ không phân phối hay xin các cơ quan ủng hộ bằng cách mua giúp.
Tôi còn nhớ, khi Chánh Trinh làm thư kí tòa soạn tờ Lao Động cuối tuần, có lần tôi vừa ra Hà Nội, đang ở nhà dịch giả Nguyễn Trung Đức số 8 Tràng Tiền, thì nhận được tin cụ rùa mới nổi ở Hồ Gươm. Nhân có nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán tới chơi, tôi giục anh Toán cùng tôi gấp gáp ra Bờ Hồ. Ở đó, bà con đang xúm đen xúm đỏ xem cụ rùa nổi. Cụ nổi lên thật. Và to thật. Nguyễn Đình Toán chụp ngay được những bức ảnh đắt giá, dù hàng ngày anh chuyên chụp chân dung văn nghệ sĩ. Nhưng tôi nghĩ, cụ rùa có khi còn nghệ sĩ hơn khá nhiều văn nghệ sĩ ở ta nữa, vả lại cụ vốn rất khiêm nhường, không hay chường mặt chém gió như nhiều văn nghệ sĩ ở ta, nên rất khó có cơ hội tiếp cận cụ. Nay thì cụ không biết vì lí do gì, đã nổi, đã đồng ý cho chụp ảnh, quay phim. Và tại sao không cho phỏng vấn? Ý tưởng vụt tới trong tôi. Đợi anh Toán hoàn tất serie ảnh, tôi về lại nhà anh Trung Đức, và ở đó, tôi cũng xong luôn một tin nóng và bài phỏng vấn cụ rùa, dĩ nhiên là một phỏng vấn theo thể giả tưởng. Gửi ngay cho anh Chánh Trinh, lúc ấy đang làm việc ở 51 Hàng Bồ ( trụ sở Báo Lao Động). Ngay sáng hôm sau, mua báo Lao Động cuối tuần, đã thấy ngay trên trang nhất ảnh chân dung cụ rùa của nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán, kèm cái tin nóng của tôi. Ở trang trong, lại xuất hiện luôn bài phỏng vấn nửa đùa nửa thật, nhưng vui. Mấy hôm sau, tôi khá choáng khi nhận nhuận bút: cái tin được trả 200.000đ, còn bài phỏng vấn thì được những 400.000đ. Vào thời điểm ấy, đó là một mức nhuận bút khá lớn mà tôi ít dám nghĩ tới. Không phải vì quen biết nhau mà anh chấm cho tôi mức nhuận bút cao như vậy. Đơn giản, chỉ vì cái tin và bài phỏng vấn của tôi thuộc loại tin bài độc đáo và ăn khách, vậy thôi.
Phải nói thêm Chánh Trinh là người sắc sảo nhưng nhân hậu. Với đồng nghiệp, anh luôn muốn đồng hành với họ, giúp họ trong khả năng nghiệp vụ và kinh nghiệm mà anh sở đắc. Tôi là người được hưởng lợi từ điều đó. Số là vào năm 1994, lần đầu tiên World Cup được tổ chức tại Mĩ, cũng là lần đầu tiên VTV chính thức đạt thỏa thuận phát sóng giải đấu này. Hầu như tất cả các tờ báo lớn ở Việt Nam lúc ấy đều ra phụ trương, tin nhanh về World Cup, trong đó có báo Lao Động. Một hôm, vào lúc giải đấu bắt đầu được vài ngày, tôi nhận được điện thoại từ Chánh Trinh, bấy giờ chỉ là điện thoại bàn. Anh mời tôi tham gia viết bài cho Tin nhanh World Cup của báo. Tôi hơi ngạc nhiên. Trước đó, tôi chỉ mới có mấy bài thơ về bóng đá, chứ chưa viết bình luận bao giờ. Nhưng tôi rất thích thú trước đề nghị này, và lập tức nhận lời. Tôi nhớ, bài bình luận đầu tiên của mình được viết như một… bài thơ văn xuôi, mượn tên một ca khúc nổi tiếng thế giới: Đừng khóc cho tôi, hỡi Argentina! Bài viết hoàn toàn ngẫu hứng ấy không ngờ được anh khen, khiến tôi vô cùng phấn khởi, và xông lên viết tiếp. Mỗi ngày tôi viết một bài, và Chánh Trinh dành hẳn đất cho tôi thỏa sức ngẫu hứng về bóng đá và… đủ thứ. Tôi thành nhà bình luận bóng đá lúc nào không hay. Và ngay sau World Cup 1994 ấy, tôi được nhiều báo mời chuyên viết… bình luận bóng đá. Tôi mừng vô cùng, vì kể từ đó, tôi đã có cửa để kiếm sống. Viết báo, với tôi, đầu tiên là để kiếm sống (bằng nhuận bút), rồi sau đó mới tính đến các ý nghĩa cao siêu khác.
Khi đã thân nhau, tôi mới được nghe Chánh Trinh kể chuyện về thời gian khốn khó nhất đời anh, xảy ra sau giải phóng, khi anh từ chối di tản để ở lại Sài Gòn nhưng chưa biết làm gì để sống. Và gia đình lâm vào hoàn cảnh quá ngặt. Đồ đạc trong nhà cứ mỗi ngày lại đội nón ra đi, mỗi ngày phải bán một món đồ để có tiền chợ và chi dùng trong nhà. Anh kể, do khó quá nên thằng con anh phải vừa đi học vừa làm thêm ở một nhà hàng, phụ rửa chén để kiếm chút tiền. Có một đêm, anh đi chiếc xe honda cũ từ toà soạn về nhà, đường phố mất điện, bất ngờ anh tông phải một người đi xe đạp. Hết hồn, anh vội vàng xuống đỡ người đi xe đạp dậy, miệng rối rít xin lỗi, rồi ớ ra vì người đi xe đạp bị tông ấy là… con trai mình. Hai bố con ôm nhau khóc. Đúng là không phải vừa đi vừa khóc, mà giữa đường đứng khóc. Nhưng tất cả những khốn khó ấy không hề ngăn cản anh đam mê nghề báo.
Đến lần World Cup năm 1998 tổ chức tại Pháp, đúng là thời cơ cho Chánh Trinh - một người bước ra từ văn hóa Pháp thi triển những gì bao năm tích lũy. Với tôi, đó cũng là thời điểm đáng nhớ, vì mùa hè năm ấy tôi dẫn con đi thi đại học, vào Sài Gòn bố con đêm thức xem bóng đá, ngày con đi thi thì bố đi nhậu. Hồi đó, công cụ hành nghề báo của tôi là chiếc máy chữ xách tay, thuộc loại nhỏ xinh so với hồi ấy, nhưng cực nặng nề và cục mịch so với bây giờ. Đêm, sau khi xem xong một trận bóng, tôi lại cắm đầu đánh máy chữ, rồi sai con mang bản thảo xuống phòng lễ tân của khách sạn để nhờ fax về tòa soạn. Mỗi trang fax phải trả 2000đ. Lúc đó, có khi đã hơn 3 giờ sáng. Vậy mà đúng 5 giờ báo đã phát hành, chạy khắp Sài Gòn.
Suốt tháng World Cup, Chánh Trinh cũng thức trắng đêm. Thấy tôi phải bò ra viết nhiều bài quá trong một đêm, anh mới bày cho tôi: “Muốn viết nhanh, kịp thời gian cho báo, thì khi trận đấu đi được một hiệp, ông cũng phải xong hơn nửa bài, hoặc hai phần ba bài. Sau đó, khi trận đấu kết thúc, mình chỉ thêm một đoạn bình luận tổng quát, kèm kết quả nữa là xong”. Tôi thấy bí kíp này quá hay, nên áp dụng luôn. Không ngờ, thành công ngoài mong đợi. Ở nhiều tòa soạn báo mà tôi cộng tác bài bình luận bóng đá, người ta ngạc nhiên không hiểu vì sao tôi lại viết nhanh như vậy. Trận đấu vừa kết thúc thì tôi đã có bài. Bây giờ, tôi phải xin nói: tôi viết nhanh được như thế, chính là nhờ Chánh Trinh. Anh đã đào tạo tôi, từ một thằng nhà thơ lông bông, thành một nhà báo bình luận bóng đá nghiêm túc và rất có nghề…
Lại nhớ rừng…
Đây không phải chuyện nhớ rừng trong bài thơ nổi tiếng của Thế Lữ. Con hổ trong bài thơ ấy nhớ rừng là nhớ về quê nhà mình, nhớ về thiên đường của loài hổ với những tâm trạng bức bối khi phải nằm trong cũi sắt. Còn tôi, đột nhiên nỗi nhớ rừng trỗi dậy khi nhận được tin nhắn điện thoại của một người bạn cũ, một người kháng chiến cũ gửi từ nước Úc xa xôi: “Nhớ mưa rừng. Nhớ khoai mì rừng… nhớ lắm bạn ơi!” Tôi chắc, nước Úc không hề thiếu rừng. Bạn tôi có thể thoải mái vào chơi trong các khu rừng nước Úc được bảo vệ và chăm sóc khá chuẩn. Nhưng rừng mà bạn tôi nhớ đây là rừng chiến khu. Nó có thể là những khu rừng già ở Campuchia. Nó có thể là những cánh rừng bị bom B52 tàn phá ở Tây Ninh, bên cạnh con sông Vàm Cỏ Đông. Bạn tôi nhớ rừng là nhớ về một thời mình ở rừng. Những khu rừng ở đâu không quan trọng bằng nỗi nhớ rừng, một nỗi nhớ nhiều khi miên man, nhiều khi đứt nối, nhiều khi bất chợt, nhiều khi không định vị.
Bạn tôi, nhà văn Lưu Kiểng Xuân, quê Cần Đước - Long An, thời chiến tranh chống Mĩ anh đăng lính lái máy bay. Anh Xuân chuyên lái trực thăng tải thương, đã từng nhiều lần hạ cánh ở thị xã Quảng Ngãi quê tôi để chở thương binh Sài Gòn từ mặt trận về Bệnh viện Quảng Ngãi. Từ chỗ là phi công trực thăng, trải qua những điều mắt thấy tai nghe khi tải thương, hiểu về số phận đau khổ của người lính Sài Gòn khi bị thương, Lưu Kiểng Xuân đã thành người Việt Cộng lúc nào không biết. Anh hoạt động cho cách mạng trong nội thành, rồi sau Mậu Thân 1968, lên chiến khu, trở thành nhà báo chuyên viết cho cơ quan tuyên truyền binh vận. Tôi gặp Lưu Kiểng Xuân khi vượt Trường Sơn về tới Trung ương Cục, vào Tiểu ban Tuyên truyền Ban Binh vận.
Gặp nhau, một anh là phi công quân đội Sài Gòn, một cậu là lính trẻ tuyên truyền binh vận từ Hà Nội vô, vậy mà chơi với nhau ngay, thân nhau ngay. Chẳng có gì lạ, vì giữa chúng tôi là những câu chuyện về lưu dân Nam Bộ. Giữa chúng tôi là những đêm nấu ấm trà ngồi trò chuyện. Anh kể tôi nghe về cách sống, cách hành nghề trên sông nước của những người nông dân quê Cần Đước của anh. Tôi ngồi nghe vô cùng thích thú, hết sức hâm mộ nghĩa khí và kĩ năng lao động của người nông dân Nam Bộ. Tôi cất kĩ những câu chuyện anh kể vào bộ nhớ văn học của mình, và chờ đợi. Ở đây, học theo nhà văn Nguyễn Thi, một người là lính cách mạng ở Nam Bộ thời chống Pháp rồi bắc sang chống Mĩ, nhưng Nguyễn Thi là người gốc Bắc. Một trong những đặc chất làm nên tầm vóc lớn của Nguyễn Thi - Nguyễn Ngọc Tấn là ông hết sức học tập lời ăn tiếng nói rặt ri Nam Bộ của người nông dân đất phương Nam và đưa chúng vào truyện ngắn, tiểu thuyết của mình ngọt vô cùng. Nhờ vậy, sau hòa bình chưa đầy một năm, tôi đã viết trường ca Những người đi tới biển tại Trại sáng tác văn học Quân khu 5 do nhà văn Nguyễn Chí Trung làm trại trưởng.
Tôi đọc dòng tin nhắn của Tư Xuân mà rưng rưng. Làm sao quên được những cánh rừng chúng tôi từng ở. Làm sao quên nồi khoai mì nửa bí mật (vì củ mì đào trộm ngoài rẫy cơ quan) trong những đêm mưa rừng lướt thướt, hai anh em vừa lai rai mấy miếng củ mì thơm lựng, vừa uống trà và tâm sự với nhau bao nhiêu là chuyện.
Bây giờ tôi mới thấu hiểu, 5 năm làm báo ở chiến trường Nam Bộ là khoảng thanh xuân đẹp nhất đời mình. Dù mình đã phải chịu đựng không ít những điều chẳng dễ chịu. Nhưng khi ta sống hết mình, sống với những ước mơ, sống trong gian khổ hiểm nguy, ta mới thật sự là mình…
T.T
VNQD