Trở lại Trường Sa

Chủ Nhật, 28/07/2019 09:25

Năm 2000, khi về Nhà số 4 được ba năm, trong tư cách là nhà thơ, biên tập viên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi được cử đi Trường Sa thâm nhập thực tế. Lần ra quần đảo phong ba ấy đã cho tôi cảm xúc mạnh mẽ và chất liệu mới mẻ để viết nên trường ca Hạ thuỷ những giấc mơ; tác phẩm được giải B Giải thưởng Bộ Quốc phòng về Văn học nghệ thuật năm 2010 - 2015. Từ khi về hưu tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện mình được ra Trường Sa lần thứ hai. Vậy mà tôi lại được đi, như một cơ duyên. Ban Văn nghệ Đài Truyền hình Việt Nam làm một bộ phim kí sự nhiều tập về Trường Sa cần một nhân vật trải nghiệm, và tôi được chọn.

Hải trình sóng gió
Một ngày gần cuối tháng tư, nắng chói chang, con tàu cất ba hồi còi tạm biệt Cảng quốc tế Cam Ranh nhằm hướng Trường Sa thẳng tiến. Trời xanh. Biển phẳng. Chợt nhớ câu “Tháng ba bà già đi biển” có từ lâu. Trong năm, tháng ba âm lịch sóng thường êm nhất. Nhưng có lẽ, không hoàn toàn đúng như thế. Lần ra Trường Sa trước của tôi, cũng đi vào tháng ba âm nhưng nhiều người vẫn dính đòn sóng lừng, say lử đử. Còn thêm tình huống này, tàu vừa buông neo, chuẩn bị hạ xuồng để vào đảo Trường Sa Lớn (tên gọi lúc đó) thì trời biển bỗng tối sầm, gió dữ nổi lên, sấm chớp ầm ầm, sóng bạc đầu nối nhau lớp lớp. Biển cả thất thường lắm, không lường hết được những bất trắc hiểm họa đâu. Trong chuyến ra khơi lần này, vào mấy ngày đầu cũng có dăm người bị váng vất, châng lâng. Vẫn bị sóng ngầm đùa giỡn đấy thôi. May là tôi còn dẻo, không hề gì, tuy tuổi đời cao nhất trong số người có mặt trên tàu. Khổ nhất là Nguyễn Thị Tú Lệ, một thành viên trong đoàn công tác của Tổng cục Hậu cần do Trung tướng Chính uỷ Lê Văn Hoàng dẫn đầu. Chỉ sau mười lăm phút bước lên tàu Lệ đã say bê bết, gần hai ngày đêm nằm bệt một chỗ, nôn thốc nôn tháo, quặn thắt ruột, không dám và cũng không muốn cho thìa cơm muỗng cháo nào vào miệng. Một chiến sĩ trên tàu bảo: “Chị phải cố ăn một chút gì đi, không kiệt sức đấy”. Lệ nói: “Chị ngửi mùi cơm đã muốn nôn rồi, ăn sao được em, giá mà có củ khoai lang luộc...”. Cứ nghĩ Lệ chỉ ước để mà ước. Nhưng không, khoảng tiếng sau, cái điều ước ấy đã thành sự thật: một đĩa khoai lang luộc bốc hơi nghi ngút được người lính trẻ kia mang đến. Lệ nhón nhén ăn vào thấy êm êm. Kể từ đó, chẳng biết do khoai hay do quen dần biển, cộng với tình cảm dành cho chiến sĩ mà trong suốt hành trình còn lại dù ở trên tàu hay lên bờ Lệ không còn say sóng nữa. Cô trở lại tươi tắn, hoạt bát và hát hay như thường. Anh em trong đoàn thường lấy củ khoai làm hình ảnh ám dụ ra trêu Lệ, cô chỉ biết cười trừ.
Dù biển có phẳng lặng, dịu êm đến bao nhiêu thì trong hải trình đến Trường Sa, người lính tàu vẫn phải luôn chuẩn bị tinh thần đối phó với những tình huống bất lợi. Nó là sự thử thách không nhỏ bản lĩnh của những người lính biển. Giữa đêm biển rất yên bình, trời chi chít sao, gió nhẹ, gần xa lấp loáng ánh đèn trên những con tàu đánh cá của ngư dân ta. Tôi ướm hỏi Đại uý Nguyễn Văn Sĩ, Chính trị viên tàu Trường Sa 571: “Tàu ta đi như thế này có bị họ theo dõi không em?”. “Có đấy anh ạ!”, Sĩ trả lời. Chàng sĩ quan sinh năm 1977, quê Ninh Bình, có một vợ, một con mới năm tuổi này kể với tôi: “Có lần tàu ta đang đi thì gặp tàu chiến họ. Hai tàu đi song song với nhau, gần lắm. Họ phát loa, ban đầu bằng tiếng Anh, rồi tiếng Trung, cuối cùng là tiếng Việt. Rất sõi. Phía bên kia thông báo tàu Việt Nam đang vi phạm vào lãnh hải của nước họ. Họ yêu cầu tàu chúng ta phải đổi hướng”. Tôi cắt lời Sĩ: “Họ là tàu chiến, mình tàu khách, nếu xảy ra sự cố chắc ta bị lép, vậy các em xử trí sao?”. Nguyễn Văn Sĩ mỉm cười: “Em nói với chiến sĩ cứ đi đúng hải trình, không được đổi hướng và phát loa trả lời: Tàu chúng tôi đang đi trên lãnh hải thuộc chủ quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Tàu họ bám theo tàu ta một chặng nữa, sau đó bỏ đi”. Tình huống như Chính trị viên tàu Trường Sa 571 kể chẳng hề xa lạ với người lính và cả người dân của chúng ta trong nhiều chuyến xa khơi. Không chỉ trên vùng biển Trường Sa đâu, ngay cả những điểm gần đất liền như đảo Cồn Cỏ ở Quảng Trị chẳng hạn, vẫn có khi gặp họ. Tàu quân sự, tàu cá của nước láng giềng to lớn cố ý vi phạm vào lãnh hải thuộc chủ quyền nước ta, không chỉ một lần mà nhiều lần. Rất dễ xảy ra va chạm, đụng độ, và biển Đông có thể dậy sóng bất cứ lúc nào. Sự bình lặng của biển Đông thực sự mong manh khi mưu toan độc chiếm phần lớn vùng đại dương này vẫn còn nguyên trong tâm trí họ.

 Tàu của đoàn công tác chuẩn bị cập cảng Trường Sa - Ảnh: PV

Trường Sa ngày ấy, bây giờ
Đến Trường Sa lần này, tôi tận mắt thấy muôn vàn đổi thay mừng đến rơi nước mắt của quần đảo yêu thương, từ cảnh quan đến các công trình và cuộc sống của bộ đội, nhân dân trên các đảo. Nhưng có một điều vẫn giữ vẹn nguyên không hề suy suyển, đó là tinh thần giữ nước của chiến sĩ và nhân dân ta. Tinh thần bất khuất, can trường, kế sách phòng giặc từ xa được truyền lưu lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi lại muốn nói bằng một khái niệm khác, đó là văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt, dẫu rằng nội hàm của nó chỉ là một. Tất cả các đảo đều dựng bia khắc ghi bài thơ Nam quốc sơn hà của danh tướng Lý Thường Kiệt, bài thơ được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc Việt Nam. Dưới lồng lộng trời cao, trong chói chang nắng biển, tôi đứng lặng yên trước tảng đá quý khá lớn khắc trọn vẹn bài thơ yêu nước có từ thế kỉ XI. Bài thơ ngân vọng trong lòng tôi như từng vang lên trên phòng tuyến sông Cầu khi giặc Tống đang hung hăng tiến vào bờ cõi nước ta: Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Thế đấy, rành mạch, rõ ràng như lời thề giữ nước sắt son. Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách Trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Những ngày ở Trường Sa trong tôi luôn hừng hực bật lên những vần thơ giữ nước, giữ biển của ông cha, từ Nhờ cậy dư uy trừ giặc Bắc/ Giúp ngay đất nước được thanh bình của Trần Quang Khải đến Sông Đằng một dải dài ghê/ Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông/ Những người bất nghĩa tiêu vong/ Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh của Trương Hán Siêu; rồi Biển Bắc năm xưa đã diệt kình/ Dù yên, còn luyện ngũ ôn binh của Nguyễn Trãi; và Trăm sông chầu xuống bể Đông/ Đảo bày ngan ngát, bể lồng trời xanh của Lê Thánh Tông... Còn nhiều, nhiều lắm những bài thơ, câu thơ xác lập chủ quyền biển Việt xưa nay, xin được nhắc lại một minh triết giữ nước rất nổi tiếng được Nguyễn Bỉnh Khiêm đúc kết: Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững trị bình. Muốn đất nước trường tồn, phát triển phải giữ chặt biển đảo. Kế sách giữ nước ấy được truyền lưu từ đời này qua đời khác và cũng thật dễ hiểu khi các thế hệ đã nối tiếp nhau cưỡi sóng, đạp gió trấn giữ biển đảo Tổ quốc. Những câu thơ của Trạng Trình đã làm tôi nảy ra một ý tưởng: tìm gặp những chiến sĩ sinh vào năm 2000, năm tôi ra quần đảo lần thứ nhất. May mắn là tôi đã được gặp gỡ ba chàng lính biển sinh năm ấy.
Nguyễn Quốc Trung ở đảo Đá Lát, người nhỏ, đen nhẻm, quê xã Quốc Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nhập ngũ năm 2018. Trung thỏn thẻn: “Mười bốn tuổi con đã học nghề sửa chữa ô tô. Con ở Trường Sa gần năm rồi chú ạ. Tết vừa rồi lần đầu tiên con xa nhà đó chú!”. “Có khóc không con?”, tôi hỏi. “Dạ, cũng hơi khóc một chút thôi à”. “Khóc một chút cũng là khóc đó nghe!”. Trung cười: “Dạ, biết vậy, nhưng nhớ ba má quá không kìm được...”. Tôi ôm chàng lính vào lòng và ngửi thấy mùi trời, mùi biển Trường Sa trên mái tóc hoe hoe và làn da đen cháy của Trung. Hình như có cả mùi bão giông chưa tan hết trên thân thể người lính trẻ. Trung nói: “Hết nghĩa vụ, con về quê tiếp tục làm nghề sửa chữa ô tô, được không chú?”. “Được lắm con ạ, may là con đã có một nghề để mưu sinh khi ra quân...”.
Nguyễn Ngọc Tấn Tài ở đảo Phan Vinh, quê Cần Giuộc, Long An, quê hương của các nghĩa binh yêu nước chống giặc Pháp được cụ Đồ Chiểu khắc tạc rõ nét đầy xúc động trong bài văn tế truyền đời của mình. Đi bộ đội vào tháng 3 năm 2018, Tài ra Trường Sa từ tháng 1 năm nay. Mơ ước của chàng lính này là được học lái xe. Giản dị vậy thôi.
Võ Gia Quốc là con đầu trong một gia đình có cha làm thợ xây, cũng nhập ngũ vào tháng 3 năm 2018, ra đảo cùng đợt với Nguyễn Ngọc Tấn Tài. Quê Quốc ở Tuy Hoà, Phú Yên. Ước mơ của Quốc là khi ra quân sẽ được học nghề sửa chữa máy. Tôi hỏi Quốc: “Con đã có người yêu chưa?”. Chàng lính cười: “Đã có... nhưng cô ấy bỏ con rồi chú ạ!”. Không phải cô gái nào cũng chịu thông cảm và chấp nhận cảnh chia xa biền biệt để giữ trọn tình yêu với người lính.
Có thể còn nhiều chiến sĩ sinh năm 2000 đang ở Trường Sa mà tôi chưa có dịp gặp gỡ để trò chuyện. Nhưng chỉ cần gặp ba chàng lính này tôi đã có thể nhận ra cái chung nhất của một thế hệ lính trẻ: sự trong sáng và biết chấp nhận gian khó, toàn tâm toàn ý thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng.

Tôi đang đi giữa Trường Sa. Một Trường Sa sạch, xanh, đẹp theo nhiều nghĩa. Phải xây dựng Trường Sa đàng hoàng hơn, to đẹp hơn không chỉ cho hiện tại mà còn vì tương lai. Những ngôi nhà nhiều tầng vững chãi, sáng sủa, thoáng đãng thay thế những ngôi nhà cấp bốn lợp tôn hay tấm lợp xi măng ngày trước. Trường tiểu học, trung tâm y tế, bưu điện, nhà khách..., thậm chí cả cảng hàng không đều đã có ở thị trấn Trường Sa. Nguồn năng lượng sạch thu từ nắng, từ gió Trường Sa đã trở thành hiện thực một phần. Kết cấu hạ tầng vừa phục vụ nhu cầu an sinh hiện tại vừa đặt nền tảng cho một tương lai gần khi có tuyến du lịch Trường Sa. Tương lai xa hơn là một thành phố Trường Sa tuyệt đẹp như lời phát biểu của Trung tướng Lê Văn Hoàng với cán bộ chiến sĩ và nhân dân nơi đây. Lẽ nào ta không lãng mạn khi Trường Sa đã được xác lập chủ quyền của Việt Nam, xác lập không chỉ bằng những cột mốc ghi vĩ độ kinh độ, mà quan trọng hơn, được khẳng định bởi những sinh thể mang biểu tượng văn hoá Việt được gieo trồng đã vươn cành toả bóng trên vùng biển đảo này. Những tán cây xanh, vườn rau tươi tốt, hoa cảnh khoe sắc làm dịu đi những ngày nóng bức và làm cho đất liền gần hơn. Tiếng gà gáy sớm gáy trưa, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng chó sủa, tiếng chim hót..., với đất liền là chuyện không mấy ai để ý, nhưng với Trường Sa, đấy là thanh âm quê nhà.
Đi dạo trong khu vườn của đảo Trường Sa có đủ loại rau mang từ đất liền ra, tôi rưng rưng nghe câu chuyện của Thiếu tá Trịnh Xuân Huân, Phó Chỉ huy, Tham mưu trưởng đảo Trường Sa, quê Quỳnh Phụ, Thái Bình, người bám trụ ở đây từ năm 2009. Vợ anh là Lô Thị Thu Hiền. Sau quãng thời gian xa nhau đến mười chín tháng, chị mới được theo tàu ra đảo thăm chồng vào năm 2012. Tại cầu cảng, hai người ôm chặt nhau như chẳng muốn rời. Hiền khóc, những giọt nước mắt mặn hơn vị biển thấm ướt vai áo chồng. Vợ chồng ở với nhau chỉ được một tuần. Nhưng một tuần ấy là “một tuần hạnh phúc nhất của vợ chồng em bác ạ, đêm tân hôn cũng chẳng được như thế!” như lời kể bổi hổi bồi hồi của chàng thiếu tá. Tôi tin anh nói thật, rất thật nỗi lòng mình chứ không hề thi vị hoá những ngày chồng vợ hiếm hoi của người lính biển. Cũng qua câu chuyện của anh tôi mới biết rằng, chuyến tàu ra Trường Sa cùng vợ anh năm ấy còn có hai mươi thân nhân của bộ đội. Họ là mẹ, là vợ của cán bộ, chiến sĩ. Có cả mẹ vợ ra thăm con rể. Mẹ của thầy trụ trì chùa Trường Sa cũng đi trong đoàn. Có cả người bố ra thắp hương cho con đã hi sinh...
Nếu như năm xưa ra Trường Sa tôi đã ngỡ ngàng vì thấy trên các đảo có những người lính “mặt trẻ tóc già”, tuổi mười tám đôi mươi mà đầu đã điểm bạc bởi phong sương, thì chuyến đi này tôi cũng đã ngỡ ngàng khi một buổi chiều được ngắm những cháu bé thả diều, cười vui tíu tít trước nhà khách Thủ Đô. Và cạnh đó, dưới những cây phong ba đang hồi sức sau cơn bão dữ dội vừa qua là cháu bé tầm hai tuổi đang nũng nịu ôm vai một phụ nữ mang bầu. Hình ảnh ấy khiến tôi xúc động bước tới và được biết, người phụ nữ đó là Nguyễn Thị Mỹ Dung, sinh năm 1992. Người mẹ trẻ nở nụ cười tươi rói làm rạng rỡ khuôn mặt bầu hiền hậu. Gần cuối năm nay cô sẽ sinh con thứ hai. Con trai nhé. Mười tám năm sau, biết đâu con trai của mẹ Dung sẽ là một chiến sĩ canh giữ Trường Sa.
Trên đảo Núi Le, khi vào một căn phòng, tôi bắt gặp bộ sách giáo khoa dành cho học sinh lớp hai. Chủ nhân của nó là Thượng uý Đào Quốc Doanh. Anh thuộc quân của Hải đội 4 Vùng 1 tăng cường cho Vùng 4 từ tháng 7 năm 2018. Doanh kể: “Hai lần vợ sinh con, em đều ở trên biển. Con trai đầu của em đang học lớp hai anh ạ. Em mang theo bộ sách giáo khoa này để đêm đêm học bài với con...”. Tôi ngạc nhiên: “Cách xa thế, em học với cháu thế nào?”. Doanh kể: “Em mua gói điện thoại V90 của Viettel và mỗi đêm cùng học với cháu một giờ. Em nghe cháu tập đọc rồi chỉnh sửa lỗi cho cháu nếu có, hay hướng dẫn cháu làm toán. Khi được bố khen cu cậu khoái lắm anh ạ. Thỉnh thoảng lại nhắc, lúc nào bố về nhớ mua siêu nhân cho con nhé”.

Đảo Phan Vinh - Ảnh: PV

Cột mốc chủ quyền, cột mốc tâm linh
Đi một vòng quần đảo Trường Sa, tôi đã được thấy, được nghe thêm nhiều chuyện. Những câu chuyện chan chứa về một Trường Sa Tổ quốc ở phía mặt trời lên. Một Trường Sa mỗi năm bảy tám tháng biển động nhưng vẫn ưỡn ngực hiên ngang trước sóng gió thiên nhiên. Một Trường Sa đã đổ máu vì giặc xâm lăng nhưng vẫn kiên cường bất khuất để bây giờ ngư dân vươn khơi luôn coi các đảo ở Trường Sa là điểm tựa vững chãi cả lúc trời yên biển lặng và cả khi bão tố; nước ngọt, lương thực, nhiên liệu hao vơi, thiếu thốn cũng đỡ lo khi có bộ đội bên mình; ốm đau, tai nạn không thể không tìm đến các chú bộ đội. Đất liền hay trùng khơi vẫn toả sáng hình ảnh bộ đội Cụ Hồ. Giữa tháng tư này, ngư dân Nguyễn Thanh Trung, 52 tuổi, quê Bình Thạnh, Bình Sơn, Quảng Ngãi đang đi biển thì đau bụng quằn quại. Dân đưa lên bệnh xá đảo Phan Vinh. Thiếu tá, bác sĩ Lê Xuân Vượng chẩn đoán anh bị viêm ruột thừa. Không còn con đường nào khác, mổ. Kíp phẫu thuật gồm bác sĩ Vượng cùng với ba y sĩ Phạm Thanh Bình, Nguyễn Hải Hà và Đỗ Xuân Dũng. Hôm tôi vào thăm, bệnh nhân Nguyễn Thanh Trung đã ổn, sức khỏe đang hồi phục tốt. Anh xúc động nói: “Nếu không được bộ đội trên đảo cứu, chắc tui chết giữa biển rồi”.
Tôi nhẹ bước vào chùa Trường Sa, một ngôi chùa có từ lâu đời nay được xây dựng lại khang trang, tôn nghiêm. Những bông sen khẽ rung rinh trong tiếng chuông ngân vọng. Thầy trụ trì là Đại đức Thích Tâm Tánh, sinh năm 1979, quê thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà. Mười lăm tuổi thầy đã vào chùa, ra quần đảo Trường Sa từ năm 2014. Trước đây, thầy trụ trì chùa Vinh Phúc đảo Phan Vinh, năm 2017 về chùa Trường Sa. Thầy yêu văn chương và có làm thơ. Tôi nhớ mãi tháng ngày bên biển đảo/ Khi thu về những chiếc lá vàng rơi/ Thảm cỏ non bên đường băng xanh tốt/ Nhộn nhịp vui đàn cò bay tung cánh trắng giữa trời... Thơ mộc mạc nhưng là ước vọng cho bình yên, thanh thoát, con người thiên nhiên hoà lẫn vào nhau, tựa nương nhau, thân thiện. Đại đức Thích Tâm Tánh cho rằng chùa Trường Sa là một cột mốc tâm linh, là điểm tựa tinh thần cho người dân và bộ đội. Tôi nghĩ rằng điều đó hoàn toàn chính xác.
Công cuộc giữ nước được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác, như một dòng chảy thắm tươi của lịch sử dân tộc, không bao giờ dừng. Chúng ta, một dân tộc luôn coi trọng hiếu thuận, biết lấy việc gìn giữ, nuôi dưỡng hoà bình làm hạt nhân của kế lược dựng nước, giữ nước, nhưng cũng biết xả thân cho sự sinh tồn của dân tộc.
Thật thú vị khi tôi được chứng kiến một cơn mưa rào khá lớn đổ xuống giữa trưa trên đảo Trường Sa. Mưa ào ạt. Mưa rào rào. Cây cối ướt đẫm. Cột mốc chủ quyền được rửa sạch bụi bặm bỗng vụt sáng. Một cơn mưa kim cương làm hân hoan phơi phới lính và dân Trường Sa. Đến bây giờ thì tôi không xem mình là khách của Trường Sa nữa. Tôi là chủ của quần đảo này, cũng như trăm triệu đồng bào, chiến sĩ ta. Giơ bàn tay đã bắt nắng đen sẫm hứng những hạt mưa mát lành tới tấp rơi xuống, tôi bâng khuâng như gặp lại tuổi thơ mình. Mưa. Mưa. Mưa... Lễ hội của tuổi chín mười. Uôm uôm, oam oam tiếng ếch, tiếng nhái. Í ới, i ơi tiếng con nít gọi nhau. Mưa. Mưa. Mưa. Tiếng một chiến sĩ trẻ nói bên tôi: “Sáu tháng nay, Trường Sa mới có mưa chú ạ!”
Trường Sa - Hà Nội, cuối tháng 4/2019
N.H.Q

 

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Có nhân vật chỉ là dáng dấp của nguyên mẫu, có nhân vật là nguyên mẫu đã sống và chiến đấu cùng tôi, suốt những năm tháng ở rừng... (VŨ NGỌC THƯ)