. NGUYỄN VŨ ĐIỀN
“Đã xa rồi nơi ấy Sisophon
Những kỉ niệm về một thời trận mạc
Hơn bốn chục năm vẹn nguyên trong kí ức
Người mẹ ân tình, người mẹ của tôi…”
Tháng 4/1980, khi đang chiến đấu tại Campuchia, tôi được cử về Việt Nam học sĩ quan. Sau khi ra trường, tôi được giữ lại làm giáo viên và công tác tại Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp. Suốt 9 năm ở trường, tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc với học viên từ Campuchia sang. Mỗi lần nói chuyện với họ, tôi lại cố hỏi thăm xem có ai biết tin tức gì về Sisophon, Svaichek, về tình hình chiến sự ở Beantey Meanchey và có ai biết về bà Mia Silon, người mẹ Campuchia ân tình của tôi không. Nhưng chẳng ai biết cả. Nhiều lần tôi viết thư, nhờ các bạn dịch sang chữ Khmer và gửi theo đường bưu điện, nhưng cũng chẳng lần nào có hồi âm. Đành âm thầm canh cánh trong lòng.
Cho đến bây giờ là hơn 40 năm có lẻ tôi trở về từ cuộc chiến. Cũng nghĩ, sẽ cố giữ năm tháng ấy ở góc sâu kí ức để sống thảnh thơi, nhưng điều đó là không tưởng. Những năm tháng trên đất bạn thi thoảng lại hiện lên thật rõ trong đêm. Và cái mong muốn một lần được trở lại tìm vết dấu mình ngày càng thôi thúc.

Quân đội Việt Nam nhận được tình cảm đặc biệt trong quá trình làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia. Ảnh: TL
Thế rồi, tháng 2/2018, tôi đã được thỏa nguyện. Từ Sơn La, tôi về Hà Nội rồi bay vào Thành phố Hồ Chí Minh, cùng đồng đội trở lại Campuchia, thăm lại những địa danh đã diễn ra những trận đánh năm nào, những nơi mà chỉ nghe tên thôi, đã làm những người lính Sư đoàn 5 năm xưa bùi ngùi xúc động.
Với tôi, chuyến trở lại lần này còn là để tìm lại người mẹ ân tình của tôi. Suốt mấy chục năm rồi tôi không có một dòng tin tức về bà. Không biết bà còn sống hay đã chết, cuộc sống của bà và các em tôi hiện giờ ra sao? Rất nhiều câu hỏi cứ dội về khiến tôi không thể nào ngủ được.
Đêm thứ hai đặt chân sang Campuchia, cả đoàn nghỉ tại Sisophon(1) để sáng hôm sau vào Svaichek(2). Tôi nằm trằn trọc, chỉ mong trời mau sáng.
Buổi sáng thức dậy, dù biết hành trình hôm đó rất dài, tôi vẫn nói với anh em trong đoàn về nguyện vọng của mình là được dừng lại ở phum(3) Slocram để tìm mẹ. Các anh, các bạn rất ủng hộ, nhưng cả đoàn thống nhất chỉ dừng lại khoảng 15 - 20 phút thôi, vì hành trình của đoàn hôm đó rất dài và rất vất vả.
Con đường từ Sisophon vào Svaichek khoảng 25km. Gần bốn mươi năm trước, đó là con đường tử thần. Hố mìn, hố pháo của những trận đánh trên hướng này đã biến mặt đường thành thiên la địa võng, lồi lõm khấp khểnh. Ven đường, xác những chiếc xe tăng, xe tải cháy trơ khung gọng nằm rải rác trên các trảng cỏ phủ đầy bụi đỏ. Ngày nào công binh sư đoàn cũng dò gỡ mìn, vậy mà cứ vài ngày lại có xe dính. Mình dò phía trước, bọn Pol Pot gài phía sau, thậm chí mình nhấc trái mìn mang đi, bữa sau chúng lại vùi trái khác xuống. Có một dạo, đoạn đi qua phum Slocram có mấy xác người bị mìn nổ, chết ngay ven đường mãi không có ai chôn. Mấy đoạn xương ống chân chổng ngược lên trời. Đầu lâu với hai hốc mắt đen ngòm và hằm răng trắng ởn như dọa người qua lại. Mùi khăm khẳm bám theo ống quần lính về tận hầm... Nhưng giờ đây là bầu trời xanh ngắt phía trên và con đường asphalt trải nhựa láng bóng chạy xa tít tăp. Những phum làng đông đúc, mái tôn đỏ rực lô xô ẩn mình trong những hàng dừa và thốt nốt xanh thẫm. Bình yên quá. Sức sống mãnh liệt đang bời bời.
Xe dừng lại giữa phum. Với vốn tiếng Khmer ít ỏi, cùng với lời phiên dịch của chú Minh, lái xe của đoàn, những người dân trong phum cho tôi biết, mẹ Mia Silon của tôi đã chết hơn ba chục năm rồi. Tôi thẫn thờ, ngỡ ngàng và thực sự thất vọng. Một cảm giác hẫng hụt dâng trào. “Ngày tôi ở đây, bà Mia Silon có hai người con gái, một tên Nhanh, khoảng 13 - 14 tuổi, một tên Văn, khoảng 9 tuổi. Giờ họ đang ở đâu?” Nghe tôi hỏi, những người dân trong phum nói với nhau hàng tràng tiếng Khmer nhưng tôi chỉ nghe được loáng thoáng, chú Minh phải phiên dịch lại: “Họ nói, nhà cô Nhanh ở đầu phum, chỗ mình vừa đi qua, cách đây khoảng 300m, còn cô Văn đã sang Thái Lan lấy chồng lâu rồi anh ạ”. Như chết đuối vớ được cọc, để tranh thủ thời gian không ảnh hưởng đến hành trình của đoàn, tôi và Minh nhờ một người dân lấy xe máy chở hai anh em xuống nhà Nhanh.
Khi chúng tôi đến thì em đang đi lễ chùa. Nghe tin có khách Việt Nam sang, em tất tưởi chạy về, trên tay bế đứa trẻ độ chừng 2 tuổi. Là Nhanh đây ư, em đây ư? Em khác đi nhiều quá. Tôi không thể nào nghĩ rằng đây là “cái Nhanh”, cô bé mà mỗi khi tôi đến nhà, lại chạy ra ôm, chạy theo nhõng nhẽo ra chiều tự hào với lũ bạn cùng phum rằng mình có một người anh là “coong tóp Việt Nam”(4). Nay Nhanh đã 53 tuổi, mẹ của bảy đứa con, đã là bà nội, bà ngoại của cả một đàn cháu. Một người đàn bà Khmer già nua, khắc khổ đến tội nghiệp.
Thoạt nhìn thấy tôi, em chẳng hề lạ lẫm, bình thản gọi, giọng trìu mến, như thể em vẫn nghĩ sẽ có ngày tôi trở lại: “Boòng Điền... nức lá” (Anh Điền... nhớ lắm). Em cười rạng rỡ, ôm chầm lấy tôi. Rồi em khóc rưng rức. Giữa tiếng nức nở, em nói với tôi: “Boòng, me bất hời. Boòng nức me tê?” (Anh, mẹ mất rồi. Anh có nhớ mẹ không?)
Tôi khóc, siết chặt lấy vai em. Một thằng lính đã bước qua cả một cuộc chiến chinh gian khổ ở xứ sở này chưa bao giờ biết khóc, kể cả những lần phải chứng kiến đồng đội hi sinh, vậy mà, khi nghe em hỏi vậy, tôi không thể cầm được nước mắt. Tấm thân gầy gò của em dựa hẳn vào vai tôi. “Anh biết rồi. Anh nhớ mẹ, nhớ các em lắm nhưng không thể nào sang được. Anh có lỗi với mẹ và các em rất nhiều”.
Lặng đi một lát, tôi hỏi em: “Mẹ mất thế nào?”. Em kể, sau ngày tôi về nước mấy năm, mẹ sang lấy hàng bên Thái Lan, khi về theo đường buôn, bị pháo Thái Lan bắn chết. Ôi giời ơi! Lại đường buôn, lại pháo Thái Lan. Cái “Ngã tư đường buôn” ấy, 39 năm trước đã khiến 46 đồng đội của tôi hi sinh, giờ lại đến mẹ...
Nhanh đưa đứa bé cho bà hàng xóm bế giúp, rồi dắt tay tôi lên cầu thang thắp hương. Ở Campuchia, khi có người chết, họ sẽ hỏa thiêu rồi gửi tro và di ảnh lên chùa, nên ở nhà chỉ có một bát hương trên bàn thờ nhỏ, ngoài ra không có gì khác.
Lúc tôi đi, Nhanh và những người dân phum Slocram vẫy tay theo hệt như ngày tôi rời mảnh đất này mấy chục năm về trước...
Mùa mưa năm 1979, chúng tôi đóng quân tại phum Taben, cách phum Slocram khoảng một cây số.
Ngày nào, người mẹ Khmer này cũng đi qua cửa ngôi chùa, nơi chúng tôi đóng quân để lên bán hàng trên chợ Svaichek. Đội cả xấp vải nặng trĩu trên đầu, buổi chiều lại tất tả đội hàng về, công việc nặng nhọc như vậy, nhưng ở bà vẫn toát lên dáng vóc của một người thành thị chứ không giống những người nông dân vùng này. Những đau thương, mất mát suốt cuộc đời vẫn không làm bà mất đi những nét đẹp quý phái vốn có của chốn thị thành. Bà không lẫn trong những người nông dân mộc mạc ở vùng biên này.
Một buổi tối, tôi rủ Cương xuống phum Slocram chơi và hỏi mua thuốc lá. Khi chúng tôi đến, gia đình đang ăn cơm. Bà đon đả mời chúng tôi lên nhà rồi mang ra một bát nước lớn mời. Ban đầu hai thằng nói bằng tiếng Khmer rồi chuyển sang tiếng Việt, giọng Sài Gòn. Tận vùng đất xa xôi, giáp biên giới Thái Lan này lại có một người nói tiếng Việt sõi khiến chúng tôi cảm thấy thật gần gũi và ấm áp. Từ đó, cứ vài ba ngày chúng tôi lại đến chơi.
Một lần tôi bị cảm, sốt rất cao, không ăn được. Y tá đơn vị đã cho thuốc nhưng vẫn không khỏi. Bà đi chợ qua, ghé vào chùa Taben, nơi chúng tôi đóng quân để xin nước uống. Thấy tôi nằm li bì, bà hỏi thăm, bảo anh em lấy cho lọ dầu gió, bắt tôi cởi trần, nằm sấp xuống sàn gỗ, rồi lấy dầu xoa vào lưng, dùng đồng bạc cạo dọc xương sống và các dẻ xương sườn. Cả lưng tôi đầy những vết cạo gió tím bầm. Mấy hôm sau thì tôi khỏi sốt. Những ngày ấy, ngày nào bà cũng ghé thăm, cho anh em trong tiểu đội khi thì nẹp cá, lúc mấy mớ rau. Bà giống như những người mẹ Việt Nam mà những người lính chúng tôi vẫn gặp khi còn đóng quân ở trong nước.
Một hôm, nhìn chồng vải của bà, tôi nói đùa: “Mẹ ơi, mẹ cho con xin một miếng may quần được không?” Bà không nói gì, nhưng hôm sau đi chợ về, bà đội cả súc vải to hơn, nhiều màu hơn, vứt uỵch xuống sàn gỗ rồi bảo: “Điền, mẹ cho mày một miếng vải. Chọn đi, thích màu nào cũng được”. “Không, con không lấy đâu, con chỉ đùa mẹ thôi mà”.
Một miếng vải “simili” hoặc “oxford” dùng để may quần khi đó, mang từ Thái Lan về bán tại chợ Svaichek có giá tương đương với một chỉ vàng. Tôi thích lắm nhưng không dám nhận. Bà cương quyết bắt tôi phải chọn. Tôi lật lật cả súc vải lên và chọn màu tím than. Ngay sau đó, bà đưa cho tôi 50 đồng tiền Việt, rồi nói: “Đây là tiền may quần, mẹ cho con đấy”.
Tôi cầm tiền bà cho mà vẫn không tin là thật. Một người mẹ Campuchia một nách nuôi hai đứa con, bươn chải, lần hồi kiếm sống giữa hai làn đạn, nỡ lòng nào tôi lại nhận của bà. Nhưng không nhận thì bà giận, không biết cách nào từ chối nên tôi đành xin và cám ơn bà.
Sau khi đưa tiền cho tôi, bà đội súc vải lên đầu rồi nói: “Tối nay, con xin phép “lục thum”(5) xuống nhà mẹ ăn cơm. Mẹ muốn nói với con chuyện này”.
Tối đó tôi xuống nhà bà. Bà dọn ra một mâm cơm khá thịnh soạn. Bữa cơm hôm đó có bốn người: Bà, bé Nhanh, bé Văn và tôi. Lâu lắm rồi không được ăn một bữa cơm gia đình nên tôi thấy vui, ấm áp và cảm động lắm. Bữa cơm làm tôi thấy nhớ mẹ tôi và gia đình mình ở Việt Nam. Không biết từ khi tôi đi, cuộc sống gia đình tôi có gì thay đổi không, mẹ tôi có khỏe không và bố tôi đã hết thời gian đi tăng cường biên giới chưa? Bao câu hỏi cứ hiện lên trong đầu…
Ăn xong, bà lấy nước cho tôi uống. Ngồi đối diện với tôi, bà nói một cách nghiêm trọng: “Mẹ đã đi tìm con khắp nơi, giờ mới được gặp”. Tôi ngước mắt nhìn bà mà chưa hiểu bà nói điều gì. Bà chậm rãi: “Nghe mẹ nói này. Con là con của mẹ, mẹ đã sinh ra con, nhưng không nuôi được. Con được đầu thai lại ở Việt Nam. Mẹ con ở Việt Nam đã sinh con một lần nữa, nuôi con hộ mẹ và hôm nay mang trả lại đây. Vì thế, mẹ không phải là mẹ nuôi, mà mẹ là mẹ đẻ của con, con có hiểu không?” Tôi thực sự ngỡ ngàng. Tôi không tin chuyện tâm linh, nên chỉ biết cười cho qua chuyện. Bà hiểu là tôi chưa thể tin được, nhất là khi tôi và bà quá xa về không gian địa lí, hơn nữa lại ở hai đất nước hoàn toàn xa lạ.
Trong ánh đèn leo lét, bà kể cho tôi nghe về cuộc đời mình và lí do tại sao bà lại nói như vậy.
Gia đình bà trước đây sống ở thủ đô Phnom Penh. Chồng bà là một bác sĩ được đào tạo từ Pháp về, làm việc tại bệnh viện thành phố, còn bà mở một tiệm ăn trên một phố lớn của thủ đô. Kinh tế gia đình bà rất khá giả. Dưới thời Lon Nol, binh lính Việt Nam Cộng hòa hay đến quán của bà dùng bữa, qua họ mà bà nói được tiếng Việt.
Năm 1957, bà sinh được một cậu con trai nhưng được một tuổi thì đứa bé ốm rồi chết. Vì tiếc thương con, bà không thiết tha gì chuyện làm ăn mà lao vào uống rượu và cờ bạc. Chồng bà can ngăn nhưng không được. Trong một lần xô xát, ông đánh bà và cắn vào vai bà một miếng rất sâu mà cho đến nay, sau mấy chục năm vẫn còn nguyên sẹo. Sau đó, vì giận nhau nên ông trở về Pháp, còn bà vẫn ở lại làm ăn tại Phnom Penh. Mấy năm sau, ông từ Pháp về và gia đình lại đoàn tụ. Rồi bà sinh được bé Nhanh và bé Văn bây giờ.
Cuộc sống gia đình bà sau khi đoàn tụ đang rất hạnh phúc thì ngày 17/4/1975, Pol Pot chiếm được Phnom Penh. Chúng đuổi hết mọi người ra khỏi thành phố. Tất cả giới trí thức đều bị chúng coi là kẻ thù. Chúng bắt chồng bà và giết ông bằng rìu như thời trung cổ. Bà thắt ruột thắt gan bỏ nhà bỏ cửa rồi dắt díu hai đứa con thơ dại chạy ra khỏi thành phố để tránh sự truy đuổi. Bà không biết đi đâu nên cứ theo đoàn người hành hương mà ngược theo quốc lộ 6 chạy về hướng Thái Lan. Suốt mấy tháng trời chui lủi, bà mới đưa được hai con về nương náu ở vùng này cho đến hôm nay.
Cách đây mấy tháng, bà nằm mơ thấy thần Bao Công với khuôn mặt đen sì, rẽ nước lên, nói với bà rằng con trai bà sắp trở về và nó sẽ về từ hướng Đông. Bà nghĩ mãi về giấc mơ này và thấy hướng Đông là từ Việt Nam sang. Giấc mơ ấy khiến bà bao đêm thổn thức, bà nghĩ rằng con bà sẽ theo bộ đội Việt Nam trở về với bà. Đã mấy lần bà bỏ cả việc làm ăn, khăn gói đi tìm con. Nhưng biết ai mà tìm, bộ đội Việt Nam sang đây nhiều lắm, chỗ nào cũng có...
Bữa tôi và Cương đến chơi, bà đã thấy lạ. Bởi từ trước đến giờ có ai là người Việt đến nhà bà đâu. Qua hỏi chuyện, bà biết tôi sinh năm 1958, ít hơn con bà một tuổi. Hôm đánh gió cho tôi bà quan sát và thấy tôi có một cái bớt ở lưng, giống cái bớt trên lưng con bà thời nhỏ, nên liên tưởng đến giấc mơ kia. Khi bà cho tôi tấm vải may quần là muốn thử xem tôi thích màu gì. Thấy tôi chọn tấm vải màu tím than, màu vải mà chồng bà ngày còn sống hay mặc, vậy là bà tin chắc, tôi chính là đứa con mà bà sinh năm 1957 bị chết khi vừa tròn một tuổi. Bà tin tôi đã được đầu thai lại ở Việt Nam và giờ đây thần Bao Công đã cho tôi được trở lại với bà.
Những điều bà nói làm tôi suy nghĩ. Chẳng biết thực hay hư, nhưng được người dân yêu quý và cưu mang ở nơi xa nhà cả ngàn dặm thế này khiến tôi thực sự cảm động. Từ đó, tôi coi bà như chính mẹ tôi. Đi đâu về tôi cũng xuống nhà. Hai đứa con bà cũng quấn lấy tôi như với một người anh trai trong nhà. Chúng dạy tôi tiếng Khmer và tôi dạy lại tiếng Việt. Đôi khi rảnh rỗi, tôi lại xuống dọn dẹp nhà cửa giúp bà, hỏi han việc làm ăn và bà cũng kể tất cả với tôi về gia đình và công việc làm ăn của mình.
Thời gian tôi được sống bên bà không dài, chỉ khoảng 6 - 7 tháng gì đó, nhưng tình cảm mà bà dành cho tôi thật ân tình và vô cùng cảm động. Nếu bà may cho em Nhanh và em Văn một chiếc áo thì bà cũng bắt tôi may một chiếc. Tôi nói với bà là quần áo tôi do quân đội cấp, không mặc được đồ dân sự, nhưng bà vẫn không nghe. Bà bảo đó là chuyện khác, đã là con mẹ thì tất cả anh em phải được chăm sóc như nhau. Có lần đi trận về, cả hàng quân dài dằng dặc tiến vào phum, bà đứng nấp sau thân một cây dừa chờ đợi. Lúc thấy tôi đi qua, bà kéo tôi vào lòng, ôm lấy tôi mà cười sung sướng bởi tôi vẫn lành lặn. Còn tôi thì ngượng chín mặt với anh em đồng đội, nhưng cũng cảm thấy ấm áp vô cùng.
Khi tôi được cử đi học sĩ quan, bà mừng lắm nhưng cũng rất buồn. “Con được đi học là mẹ rất vui, bởi ở lại đây, biết sống chết thế nào. Nhưng con về… không biết khi nào mẹ con mình mới lại gặp nhau...” Bà khóc rất nhiều khiến tôi vô cùng khó nghĩ. Trong niềm vui được trở về, tôi vẫn canh cánh về những tình cảm của bà và hai đứa em dành cho tôi. Mấy đứa em thấy mẹ nói “boòng” Điền về Việt Nam học để trở thành “lục thum” chúng nó mừng ra mặt, nhưng cũng buồn vì không còn được gặp boòng Điền.
Hôm chuẩn bị lên đường, tôi xuống nhà chào bà và các em. Bà làm lễ Phật cầu mong cho tôi trở về may mắn. Bà dựng một cái bàn thờ ở ngay cột cái giữa nhà, rồi lấy hoa dừa kết lại thành hình mái nhà, đặt lên bàn thờ hoa quả, bánh kẹo và một chậu nước. Trong chậu nước, bà đặt một ông Phật bằng vàng rất đẹp. Sau khi thắp hương, bà khấn vái, mong Đức Phật phù hộ độ trì cho tôi sức khỏe và những điều may mắn. Bà đưa cho tôi một chiếc khăn krama(6) rồi bê chậu nước bảo tôi đi tắm, bà nói là tắm nước Phật.
Tôi bê chậu nước xuống sân, nhưng thấy bà con trong phum kéo đến rất đông, nên xấu hổ không dám tắm, mà lấy nước vẩy vẩy vào chân. Nhìn thấy thế, bà quát, bảo rằng ai lại lấy nước Phật rửa chân. Rồi bà bắt tôi đứng im, bê cả chậu nước, dội suốt từ đầu xuống. Khi đó bà mới bằng lòng, cười mãn nguyện. Rồi bà kéo tôi vào nhà, đưa hai chục mét vải, nói là gửi tôi về biếu bố mẹ tôi ở Việt Nam và mọi người trong gia đình để mỗi người may được một thứ. Tiếp đó, bà đưa cho tôi năm túi mì chính và ba cây thuốc lá Samit, loại thuốc ngon và đắt nhất nhất của Thái Lan thời đó, nói là để tôi về làm quà cho mọi người.
Ngày tôi về nước, tất cả những thứ trên lưng đều là quà của bà. Ngoài những thứ bà cho, tôi chỉ có một bộ quần áo lính đã rách bươm và chiếc võng cũ mèm nằm dưới đáy ba lô. Những năm 80 của thế kỉ XX, ở Việt Nam, mì chính rất quý, chẳng phải nhà ai cũng có, nên số quà của bà cho tôi là một khối tài sản lớn mà có mơ tôi cũng không bao giờ nghĩ đến.
Hơn bốn chục năm rồi. Hôm nay mẹ đã đi rất xa, nhưng may mắn cho tôi, khi trở về vẫn gặp được em Nhanh, đứa em bé nhỏ của tôi ngày nào. Tuy vất vả nhưng em có được một gia đình hạnh phúc, êm ấm, một mái nhà cao ráo hơn, đẹp đẽ hơn mái nhà năm xưa.
Món nợ ân tình của mẹ, cả đời tôi cũng không trả được
N.V.Đ
--------
1. Sisophon (còn gọi là Saophoan), thành phố và cũng là tỉnh lị của tỉnh Beantey Meanchey
2. Svaichek là một huyện của tỉnh Beantey Meanchey
3. Phum: như thôn, làng của Việt Nam.
4. Coong top: Bộ đội
5. Lục thum: Ông lớn (ý gọi chỉ huy đơn vị)
6. Khăn krama là chiếc khăn truyền thống của người Kh’mer, giống chiếc khăn rằn của miền Tây Nam bộ.
VNQD