. NGUYỄN HÀ THANH
Những kẻ xấu không ngừng tiến hành vu cáo, bôi nhọ xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh với mục đích rõ ràng: hạ bệ thần tượng dân tộc để tiến tới xóa bỏ thành quả cách mạng. Gần đây xuất hiện luận điệu cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng dân tộc cực đoan hẹp hòi chứ không phải tư tưởng Cộng sản hay tinh thần quốc tế vô sản.
Bài viết xin vạch trần luận điệu phản động ấy bằng cách chứng minh phong cách ngôn ngữ liên văn hóa của Bác Hồ trong bối cảnh Đông Nam Á để thấy được rõ hơn quan niệm về tinh thần đoàn kết, hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc thật lớn lao của Người!
Tư tưởng Hồ Chí Minh đi trước thời đại, soi đường cho văn hóa các dân tộc tiếp bước dưới ánh sáng của tình yêu thương, hòa bình, đoàn kết, hữu nghị. Cả cuộc đời và mục đích cháy bỏng của Người không chỉ là độc lập, tự do cho Tổ quốc mình, hạnh phúc cho đồng bào mình mà còn cho toàn nhân loại, cho mọi dân tộc trên trái đất này. Bác Hồ dùng ngôn ngữ văn hóa vào mục đích thể hiện tình cảm, tuyên truyền kêu gọi đoàn kết. Ngôn ngữ cũng là sứ giả trung thành nhất trong việc thể hiện tình cảm đối ngoại chân thành, trong sáng. Có một mạch ngầm trong mối liên hệ văn hóa Đông Nam Á là chung một ngôn ngữ Tày-Thái-Nùng- Mường, mà dấu hiệu của nó có khi ở cái vỏ ngôn từ hoặc chìm khuất trong các ký hiệu âm thanh đã có từ lâu đời.
Với quan niệm đại gia đình các dân tộc Việt Nam như là anh em một nhà, Bác Hồ nhiều lần gửi thư thăm hỏi động viên tới đồng bào các dân tộc. Ngày 19-4-1946 Người có Thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây Cu, có đoạn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”.
Ông Trần Viết Hoàn nguyên Giám đốc Khu di tích lịch sử Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch còn giữ bút tích của Bác Hồ trong một lần Người về thăm Cao Bằng: “Chúc đồng bào pi mư đạy lai”, có nghĩa là: Chúc đồng bào năm mới nhiều tốt đẹp, và kèm theo mấy dòng tiếng phổ thông: “Cao Bằng phải cao bằng những tỉnh tốt nhất, tốt nhất là Cao Bằng vượt mức cao không ai bằng”. Đáng lưu ý trong lời văn Người vẫn dùng hai chữ “đồng bào” theo chữ viết tiếng Việt vì nó đã phổ thông quen thuộc với bà con, nghĩa của nó lại chứa đựng ý nghĩa về tinh thần đoàn kết keo sơn của các dân tộc anh em trong đại gia đình Việt Nam.
Hai nét nổi bật trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh là tình thương yêu con người và sự đoàn kết dân tộc. Không ngẫu nhiên những câu ca dao ngụ ngôn "Một cây làm chẳng nên non/ Nhiều cây chụm lại nên hòn núi cao", “sẻ áo nhường cơm”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”… rất hay được Người sử dụng. Khi nói về đoàn kết, nhất là nói với đồng bào dân tộc thiểu số Bác Hồ rất hay dùng ngụ ngôn. Người thường mượn hình ảnh sông, núi để khẳng định ý chí đoàn kết không gì lay chuyển của người dân Việt Nam, và nhất là hình ảnh bàn tay:
“Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ”.
Giữa tháng 5- 1959 lên thăm nhân dân Sơn La, Người có một ngụ ngôn quen thuộc với đồng bào miền núi: “Bây giờ chúng ta, tất cả các dân tộc Kinh, Thái, Mường, Mèo, Mán, Xá, Puộc, v.v. đều là anh em ruột thịt một nhà chứ không phải Kinh ăn hiếp Thái, Thái ăn hiếp Xá, Puộc như trước nữa. Cũng ví như một bó que, đây là đồng bào Kinh, Thái, Mèo, Xá, Puộc, Mán, Mường. Từng cái một có thể bẻ gãy. Bây giờ đoàn kết lại thế này có ai bẻ gãy được không? Chẳng những không ai bẻ gãy được, mà ai bẻ chúng ta đánh vào cái đầu nó. Đồng bào phải đoàn kết chặt chẽ như nắm tay này”.
Bác Hồ hay dùng ngụ ngôn để nói với đồng bào vì Bác hiểu và Bác thực sự đã là người của đồng bào, như sống cùng trong một mái nhà để sẻ chia những buồn vui tâm tư của đồng bào!
Là một nhà văn hóa, Bác Hồ có một sự tôn trọng cá tính văn hóa rất đáng quý.
Ngày 9-12-1961 Bác về Nghệ An và có cuộc nói chuyện với cán bộ và học sinh trường sư phạm miền núi Nghệ An. Bác hỏi: “Ở đây có mấy dân tộc? Sao mà lại mặc theo người Kinh cả? - Các cháu Thổ đâu? Mặc sao giống người Kinh?”. Rồi Người hỏi đến các cháu người Thái, Thanh đâu, Tày Mười, Đan Lai, Lào. Hỏi đến các cháu Tày Hãy, thấy chỉ có một cháu, Người nhắc “Sao lại không có cháu gái? Lần sau phải có cháu gái”. Người quan tâm đến ngôn ngữ: “- Các cháu nói chuyện với nhau được không? Nói chuyện với nhau bằng tiếng gì?”.
Chúng ta chú ý thấy Bác hỏi cũng là sự nhắc nhở: “Sao mà lại mặc theo người Kinh cả?”, “Mặc sao giống người Kinh?”, nghĩa là Bác mong muốn học sinh dân tộc nào phải giữ gìn phong tục dân tộc đó, tức mỗi dân tộc phải giữu gìn bản sắc dân tộc đó, không được hòa tan, làm mất.
Câu chuyện sau cho thấy Bác Hồ rất tôn trọng, coi trọng “tính chất của dân tộc”: “Mùa thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm - chiến sỹ người dân tộc Cà Tu, tham gia đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể: “Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân. Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:
- Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình”.
Một trong những điều Bác căn dặn là cán bộ phải biết tiếng dân tộc: “Nước ta có nhiều dân tộc, đấy là điểm tốt. Mỗi dân tộc có một tiếng nói riêng, có khi hai dân tộc một tiếng nói. Cán bộ đi làm việc chỗ nào, phải học tiếng ở đấy. Ví dụ các chú đi tuyên truyền ở nơi đồng bào Mèo, mà phải có một người phiên dịch thì không ăn thua. Bởi vì người phiên dịch ấy chưa chắc đã phiên dịch hết ý của chú, có phiên dịch lại sai đi nữa là khác. Cứ làm như thế cũng không gây được tình cảm thân thiết giữa cán bộ với quần chúng. Bác cho rằng học tiếng của các dân tộc không khó lắm đâu. Học làm thơ, làm ca mới khó, chứ học tiếng dân tộc để nói chuyện cho đồng bào hiểu, để hoà mình với đồng bào thì không khó đâu...”.
Từ góc nhìn ngôn ngữ văn hóa cho thấy Bác Hồ là cầu nối những ngôi nhà văn hóa Đông Nam Á gần gũi nhau để thấu hiểu và thấu cảm về nhau.
Theo chúng tôi tìm hiểu thì Bác Hồ thành thạo 12 ngôn ngữ chính trên thế giới (có tài liệu nói Bác biết 29 thứ tiếng) nhưng ở khu vực Đông Nam Á, Bác nói được nhiều thứ tiếng như Thái, Tày, Nùng, Hmông... Nhiều người ngạc nhiên năm 1962 lần đầu Bác lên Sơn La mà lại nói được tiếng Thái. Thực ra Bác học tiếng Thái từ hồi ở Thái Lan.
Trong bài Kiều bào ta ở Thái lan luôn luôn hướng về Tổ quốc có câu: “Bác cũng phát nương làm xuốn như các anh em khác” “Xuốn”, âm tiếng Xiêm có nghĩa là vườn.
Lời chào mừng trong buổi đón tiếp vua Lào Xri Xavang Vátthana ở cuối bài có câu: “Việt - Lào Xamăckhi mặnnhưn”, có nghĩa là “Việt Lào đoàn kết muôn năm”. Bài diễn văn trong buổi chiêu đãi vua Lào, Người cũng dùng: “Paxaxôn Việt - Lào Xamăckhi mặnnhưn” có nghĩa là “Nhân dân Việt Lào đoàn kết muôn năm”. Trong Lời cảm ơn trong buổi chiêu đãi do Vua Lào tổ chức, Người cũng nhắc lại câu này: “…Chúc hoà bình thế giới. Paxaxôn Việt - Lào Xamăckhi mặnnhưn!”. Lời phát biểu trong buổi lễ tiễn Vua Lào, trước khi dừng lời cũng có một câu tiếng Lào: “Xavátđi” có nghĩa là “chào mạnh khoẻ”.
Đầu tháng 2-1958 Bác Hồ cùng đoàn đại biểu Đảng ta đi thăm Ấn Độ, đáp từ tại sân bay, sau khi đọc những khẩu hiệu hoà bình bằng tiếng Việt, cuối bài Người nói bằng tiếng Ấn:
“Panch Sheela !”.
“Panch Sheela” có nghĩa là 5 nguyên tắc chung sống hoà bình mà lúc bấy giờ
một số nước châu Á đang theo đuổi. “Panch Sheela” lại được Người nhắc lại trong buổi tiệc do Tổng thống Ấn Độ chiêu đãi.
Tháng 6-1959 Tổng thống Inđônêxia Xucácnô sang thăm Việt Nam, Hồ Chí Minh thật khiêm tốn, chân tình nói: “Về phần tôi, tôi hết sức vui mừng được gặp lại Bung Cácnô…”. Tiếng Inđônêxia, “bung” có nghĩa là “anh cả”. Cuối bài diễn văn chào mừng Tổng thống, Hồ Chí Minh nói:
“ Hiđúp Bung Cácnô!
Mớcđơca!”.
Tiếng Inđônêxia “Hiđúp” có nghĩa là muôn năm; “Mớcđơca” có nghĩa là “độc lập”. Trong diễn văn tiễn Tổng thống Xucácnô, Hồ Chí Minh nhờ Tổng thống: “Riêng Paman Hồ thì nhờ Bung Cácnô chuyển cho tất cả anh em, chị em Inđônêxia lời chúc phúc chân thành nhất,…”. “Paman” có nghĩa là “bác”. Bác Hồ tự xưng mình là “bác”, không gọi là “Tổng thống” mà gọi “bung” (anh cả) để đưa cuộc tiễn đưa ngoại giao trở về sắc thái gia đình anh em bịn rịn lưu luyến.
Về quan hệ với hai nước Miên Lào, Bác Hồ dùng hình tượng “môi răng”: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v. mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn, hoàn toàn”. Thành ngữ: “Môi hở răng lạnh” nhắc nhở mọi người biết thương yêu nhau, đoàn kết. Bác đã khéo kết hợp sức biểu cảm từ bản thân mối quan hệ giữa môi và răng luôn che chở, bảo vệ cho nhau; đồng thời gợi người đọc nhớ về câu thành ngữ quen thuộc trên. Riêng với bạn Lào, Bác Hồ thể hiện tình cảm đặc biệt qua mấy câu thơ theo hình thức tập ca dao: Thương nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt- Lào, hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long. Đây là mấy câu thơ rút ra từ Lời phát biểu trong buổi lễ tiễn vua Lào ngày 13- 3- 1963 thật chân tình, nó tựa vững chắc vào một bài ca dao về tình yêu của người Việt: Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/ Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu đèo cũng qua, nâng tình hữu nghị anh em Việt - Lào lên tầm biểu tượng vĩnh cửu qua cách sử dụng hình ảnh hai con sông Hồng Hà, Cửu Long muôn đời vẫn chảy qua hai nước. Quan niệm giúp bạn tức là giúp mình, quan niệm tình nghĩa thuỷ chung với bạn vốn đậm đà trong tính cách người Việt Thương người như thể thương thân và tinh thần nhân ái trong triết lý Khổng giáo phương Đông được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên một đỉnh cao mới.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ tư Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, phóng viên báo Praxa Thipatay (Thái Lan) phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề hoà bình trong khu vực. Người nói: “Việt Nam phải kháng chiến tranh lại thống nhất và độc lập thật sự đã, sau mới có thể bàn đến việc khác. Đức Khổng Tử có dạy rằng: Quốc trị, thiên hạ mới bình”.
Vì Việt Nam và Thái Lan gần gũi nhau về địa lý, văn hoá, cùng chịu ảnh hưởng của đạo Khổng nên Bác Hồ mượn lời Khổng Tử làm toát lên quan điểm không những của mình mà là của cả triết lý phương Đông: mỗi quốc gia hãy thật yên ổn đã thì tự nhiên thế giới sẽ hoà bình. Hạt nhân trong câu nói Không Tử gần gũi với một cách ngôn Việt Nam: “Trong ấm ngoài êm”. Bác lấy câu nói này cũng đã bao hàm một tinh thần Việt luôn quý trọng yên ổn, hòa bình, coi sự ổn định, thịnh vượng của mỗi nước sẽ là điểm tựa cho hòa bình của khu vực và thế giới. Dù bất kỳ thời nào thì mẫu số chung của văn hóa nhân loại cũng là hòa bình, hạnh phúc. Đó cũng là lý tưởng mà Bác Hồ suốt đời theo đuổi và thực hiện.
Cuộc Hội thảo khoa học Quốc tế về Hồ Chí Minh gần đây nhất có tên Hồ Chí Minh và Ấn Độ (Ho Chi Minh and India) ngày 14/5/2022 tại Kolkata. Trước đó tại Mỹ, tháng10/2019 có Hội thảo Hồ Chí Minh toàn cầu (Global Ho Chi Minh) được tổ chức tại thành phố New York. Các Hội thảo đều khẳng định ở Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp ba luồng văn hóa: văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ và văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Các chủ đề được thảo luận đều nhấn mạnh hình ảnh Hồ Chí Minh không chỉ là vị anh hùng giải phóng dân tộc, còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người còn mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hoá cao đẹp của Người đang được cả toàn cầu đón nhận. Hồ Chí Minh không chỉ là vĩ nhân của Việt Nam còn là vĩ nhân của thế giới. Tầm vóc của Người mang tầm nhân loại, đồng hành cùng nhân loại...
Chính Bác Hồ là một trong những nhà văn hóa hòa bình có ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á ở thế kỷ XX!
N.H.T
-----------
Tài liệu tham khảo chính:
1- Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh (10 tập). Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 2010.
2- Đinh Gia Khánh (1993) – Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á. Nxb Khoa học xã hội.
3- PGS.TS Phạm Văn Đức, PGS.TS Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên) (2007) - Triết học trong kỷ nguyên toàn cầu. NXb Khoa học Xã hội.
4- Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983) – Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Viện Đông Nam Á.
5- J.Brecher (1993). Global visions beyond the new world order. Boston.
VNQD