. Nguyễn Hà Thanh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu hiện tuyệt vời của sự kết hợp văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây. Văn hoá phương Đông đã thấm vào tâm hồn cậu bé Nguyễn Sinh Cung từ tuổi ấu thơ, vì cậu may mắn được sinh ra trong một gia đình Nho học, khoa bảng, nền nếp. Truyền thống giáo dục của người Việt là “dạy con từ thuở còn thơ…”, thế cho nên ngôn ngữ văn hoá phương Đông, đặc biệt là ngôn ngữ văn hoá Trung Quốc đã được Hồ Chí Minh tiếp thu từ rất sớm. Lớn lên, trong khi đi tìm con đường cứu nước, được tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, có điều kiện để đối chiếu, so sánh, Người có những nhận xét, đánh giá rất cao về văn hoá Trung Quốc:
“Trung Quốc là một nước vĩ đại, hùng cường và đẹp đẽ. Nền văn hoá lâu đời và ưu tú của Trung Quốc đã có một ảnh hưởng sâu xa ở châu Á và trên thế giới”[1].
“Tùng, tùng, tùng! Nhân nó lên năm thế là ba giờ của các anh đấy. Đây là thời khắc ban đêm lúc lương tri cất cao tiếng. Lúc các đống mả khạc ra những kẻ nằm bên trong, họ lìa khỏi những tấm liệm he hé mở, để ra ngoài đi dò đi dẫm, cất lên tiếng rú hoan lạc. Lúc đầu óc con người đầy rẫy những bóng hình, mộng mị. Tùng, tùng, tùng! Nhân nó lên ba, thì ấy là con số chín, con số tận cùng trong những con số chẳng thể chia cũng chẳng thể nhân, mà theo vua Phục Hi thì nó biểu hiện sự suy đốn của một sinh linh được coi như cùng tột (dương cửu)” [2].
Đây là một đoạn trích trong Lời than vãn của Bà Trưng Trắc kể về giấc mơ của Khải Định gặp Bà Trưng. Trong bản phiên âm tác giả viết giương cửu bằng tiếng Việt. Tiếng Pháp, âm d và đ đọc như nhau nên nếu viết dương cửu thì người Pháp có thể đọc là đương cửu, do vậy viết giương cửu thì gần với âm tiếng Việt hơn. “Dương cửu” là một quẻ trong Kinh dịch biểu hiện mức cao nhất khi người hoặc vật đạt tới, và từ điểm này sẽ tuột xuống dốc. Vua Phục Hi , một ông vua trong thần thoại Trung Quốc cổ, thuỷ tổ của Kinh dịch. Theo Phục Hi, vũ trụ có trời, có đất, người, mặt trăng, mặt trời, ngày đêm, nước lửa, núi sông…nên ông sáng tạo ra “bát quái”, một kiểu chữ đồ hoạ cổ xưa để ghi lại những nhận thức ấy. Trong tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng các biểu tượng của văn hoá Trung Quốc để nói về “số” Khải Định cũng như quẻ Dương cửu kia lên ở mức cao nhất là vua rồi sẽ tuột xuống thân phận thảm hại đớn hèn.
Trong cuốn Đường Cách mệnh (in lần đầu tại Quảng Châu năm 1927), trong mục thứ hai Vì sao phải viết sách này?, mở đầu là những tục ngữ, ngụ ngôn Trung Quốc và Việt Nam:
“Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành công. Tục ngữ Tàu có câu: "Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức". Sư tử mạnh biết chừng nào, nếu bắt thỏ thì có khó gì, thế mà còn phải dùng hết sức, huống gì làm việc to tát như việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức thì làm sao được.
Lại nhiều người thấy khó thì ngã lòng, không hiểu rằng "nước chảy đá mòn" và "có công mài sắt có ngày nên kim". Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì phải xong”[3].
Ý tứ ở đây rất rõ ràng: mọi người phải dùng hết sức mình, quyết chí, đồng tâm hiệp lực vào việc giải phóng gông cùm nô lệ. Riêng hai câu cuối là tác giả nhắc mọi người nhớ lại chuyện ngụ ngôn “Ngu Công dời núi” trong văn học cổ Trung Quốc. Sau này ý nghĩa của câu chuyện được Hồ Chí Minh kín đáo gửi vào một bài thơ tặng thanh niên. Qua cách dùng câu tục ngữ này còn cho thấy tinh thần triệt để và quyết tâm làm bất cứ việc gì dù nhỏ ở nhà cách mạng Nguyến Ái Quốc.
Ngày 15-7-1950, theo Chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, Đội thanh niên xung phong công tác trung ương đầu tiên được thành lập. Tháng 9-1950, trong một lần đến thăm Liên phân đội thanh niên xung phong 321, Bác Hồ đã tặng mấy câu thơ:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.
Ngày xưa, bên nước Tàu có câu chuyện Ngu Công dời núi, khi có người hỏi một mình ông thì làm sao xong việc, ông trả lời, đời tôi chưa xong thì đời con tôi, đời con tôi chưa xong thì đến đời cháu tôi. Dân gian coi đấy là bài học về sự quyết chí và kiên trì. Bài thơ của Bác Hồ có mối liên hệ với ý nghĩa câu chuyện trên. Có thể là còn có một ý này nữa: Đấy là ngày xưa, lại là chuyện một cụ già, còn ngày nay là thanh niên thì chuyện "đào núi và lấp biển" cũng "quyết chí ắt làm nên". Bài thơ gián tiếp một sự so sánh, một sự "khích tướng". Hiểu như vậy là vì căn cứ vào hoàn cảnh bài thơ, Liên phân đội thanh niên xung phong 321 đang nhận trọng trách bảo vệ cầu Nà Cù (thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn) nằm trên tuyến đường huyết mạch từ thị xã Bắc Cạn đi Cao Bằng, họ phải đào núi làm đường, vá đường, khắc phục sự phá hoại do máy bay địch ném bom và lũ cuốn.
Hai câu đầu của bài thơ lại cũng có nguồn gốc từ một tục ngữ Trung Quốc. Trong cuốn Cần kiệm liêm chính được viết xong khoảng tháng 6/ 1949, trong mục Cần, Bác Hồ đã nhắc tới câu tục ngữ này:
“Người Tàu có câu: không có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng.
Tục ngữ ta có câu: Nước chảy mãi đá cũng mòn. Kiến tha lâu cũng đầy tổ”[4].
Trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên( Hồ Chí Minh) có dẫn một châm ngôn Trung Quốc:
“ Một câu châm ngôn Trung Quốc nói: “ Một nhà hoạ sỹ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn khi hiện giữa những đám mây”.
Chúng tôi không phải là những hoạ sỹ có tài. Chúng tôi không để những đám mây trong tiểu sử của Hồ Chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải thú thật rằng đã mất mối câu chuyện”[5].
Thực tế thì cả cuốn Những mẩu chuyện … cũng được viết theo nguyên tắc vẽ rồng “khi ẩn khi hiện giữa những đám mây”, nghĩa là tái hiện lại cuộc đời hoạt động của Bác nhưng để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc tác giả thỉnh thoảng lại để cho nhân vật “biệt tích”, “mất mối câu chuyện”.
Như vậy câu châm ngôn thâm thuý kia không chỉ dành cho hội hoạ mà còn là nguyên tắc miêu tả của văn chương.
Trong bài thơ Trung thu (Nhật ký trong tù) có khổ I:
“Trung thu thu nguyệt viên như kính,
Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân;
Gia lý đoàn viên ngật thu tiết,
Bất vong ngục lý ngật sầu nhân”
Theo tác giả Phương Lựu thì chịu ảnh hưởng bởi tứ thơ từ bài dân ca Trung Quốc. Ở miền Giang Nam, đời Nam Tống, khi giặc Mông Nguyên sang xâm lược, dân tình phải chạy loạn, phiêu dạt nay đây mai đó, một bài dân ca nói về tình cảnh này ra đời:
“Nguyệt tử ung ung chiếu cửu châu
Kỷ gia hoan lạc, kỷ gia sầu
Kỷ gia phu phụ đồng la trướng
Kỷ cá phiêu linh tại nguyệt đầu”
Đến thời nước Trung Hoa kháng Nhật, do tương đồng lịch sử nên bài dân ca sống lại, được lan truyền và phổ nhạc. Thời điểm này Bác Hồ đang hoạt động ở Trung Quốc, bài dân ca làm xúc động trái tim nhạy cảm với cảnh nước mất li biệt ấy nên tứ thơ ấy đã đi vào bài Trung thu một cách tự nhiên.
Trong bài Tầm hữu vị ngộ có câu cuối:
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân
(Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân).
Bài thơ được Hồ Chí Minh viết vào năm 1954 gửi đồng chí Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam sau khi Người tìm đến thăm mà không gặp. Trong Kinh thi có tích “hoàng hoa” là danh từ chỉ nơi (xa)người đi sứ đến nhậm chức. Chinh phụ ngâm cũng lấy tích này:
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dãi dầu.
Như vậy Hồ Chí Minh đã chơi chữ “hoàng hoa” vừa là danh từ chỉ hoa (hoa vàng) vừa là danh từ chỉ nơi chốn (nơi xa xôi). Câu thơ vừa tả cái đẹp của hoa vừa tả cái tình (tâm trạng) của người. Thật rất đúng với hoàn cảnh của Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc sang giúp Việt Nam đánh Pháp.
Một câu chuyện ngụ ngôn: có anh chàng nông dân vì muốn cho lúa của mình mau tốt bèn kéo cây lúa cao lên, kết quả là lúa chết. Ngụ ngôn này đã phổ biến ở phương Đông từ rất lâu. Trong những lời biện luận của mình Mạnh Tử đã từng sử dụng để chế giễu những người đi ngược lại quy luật biện chứng. Hồ Chí Minh dùng ngụ ngôn ấy vào mục đích giáo dục tính kiên nhẫn, chịu khó, tránh chủ quan, nóng nảy:
“- Nóng nảy là việc gì cũng chủ quan, không điều tra nghiên cứu kỹ lưng, vội vàng, muốn làm cho mau, làm ẩu. Thiếu kiên nhẫn, thiếu tinh thần chịu khó.
Như người nông dân nọ: muốn lúa mau cao mau tốt bèn nắm lúa nhổ lên!
Làm việc mà nóng nảy, thì nhất định thất bại" [6].
Ngày 30-10-1958 trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ văn hoá, vì đối tượng ít nhiều đã biết về văn hoá Trung Quốc nên Hồ Chí Minh dùng khái niệm trong ngôn ngữ Trung Hoa để mọi người hiểu vấn đề vừa ở cấp độ khái quát, vừa cụ thể:
“Cả về mặt chính trị, tư tưởng, tinh thần trách nhiệm cũng như về các mặt nghiệp vụ, nghệ thuật, kỹ thuật, văn hoá, chúng ta vẫn còn thấp. Cho nên mọi người cần phải ra sức học tập thêm. Nói như tiếng Trung Quốc thì gọi là "trước hồng sau chuyên", mà "hồng" thì phải đến nơi và "chuyên" thì phải đến chốn”[7].
Hai câu trên là cụ thể, câu sau là khái quát. "Trước hồng” là “về mặt chính trị, tư tưởng, tinh thần trách nhiệm”; “sau chuyên" là “về các mặt nghiệp vụ, nghệ thuật, kỹ thuật, văn hoá”. Như vậy "trước hồng sau chuyên" thì ai cũng nhớ.
Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá III), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lấy hai câu tục ngữ làm điểm tựa cho ý kiến “ phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan trọng”:
“Việt Nam ta có câu tục ngữ: "Có thực mới vực được đạo". Trung Quốc cũng có câu tục ngữ "Dân dĩ thực vi thiên"[8].
Nước ta và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng về văn hoá, địa lý nên tác giả lấy hai câu tục ngữ có ý nghĩa giống nhau làm cho “điểm tựa” của mình toàn diện hơn, nét chân lý phổ quát rộng rãi hơn.
Với bút danh C.B, trên báo Nhân dân số 188 ngày 25, 27-5-1954 Bác Hồ viết bài báo Tuyên truyền để giáo dục bản lĩnh cán bộ, nhân dân trước mọi dư luận và nhất là cảnh giác trước mưu đồ “tuyên truyền” của kẻ thù. Tác giả mở đầu bằng một câu chuyện ngụ ngôn Trung Quốc:
“Anh Tăng, học trò cụ Khổng, là một người rất đạo đức, được mọi người kính yêu. Một hôm, Tăng đi đốn củi, quá trưa mà chưa về. Một người bà con đến nói với mẹ Tăng: "Nghe nói Tăng vừa phạm tội giết người...".
Mẹ Tăng yên lặng nói: "Chắc là họ đồn nhảm. Con tôi hiền lành lắm, chắc nó không bao giờ giết người".
Lát sau, một người khác lại nói: "Nghe nói Tăng bị bắt rồi...".
Bà cụ Tăng bắt đầu lo sợ, nhưng vẫn bình tĩnh.
Vài phút sau, một người khác lại nói: "Nghe nói Tăng bị giải lên huyện rồi...".
Bà cụ Tăng vất cả công việc và chạy cuống cuồng.
Không ai hiền lành bằng anh Tăng. Không ai tin tưởng anh Tăng bằng mẹ anh. Thế mà vì người đồn qua, kẻ đồn lại, dù không đúng sự thật, mẹ Tăng cũng đâm ra lo ngại, hoang mang”[9].
Tác giả bình luận một câu làm nổi bật chủ đề của ngụ ngôn: “Ảnh hưởng tuyên truyền là như thế”.
Từ đó có thể rút ra bài học: với người cách mạng chúng ta luôn biết học tập, kế thừa, vận dụng văn hoá nước ngoài vào thực tiễn cách mạng.
-------------------
NHT
[1] Hồ Chí Minh toàn tập (2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 8, tr 2.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 1, tr 78.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 2, tr 261.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 5, tr 632.
[5] Nxb Văn học, 1970, tr 51.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 7, tr 170.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 9, tr 249.
[8]Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 10, tr 543.
[9] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000). Nxb Chính trị Quốc gia, tập 7, tr 283..
VNQD