. ĐỖ ANH VŨ
Trong mười hai con vật của hệ can chi, lợn (miền Nam gọi heo, hợi theo can chi) là con vật đứng ở vị trí cuối cùng và là một trong những con vật gần gũi nhất với đời sống người Việt. Do đó, lợn đi vào trong văn học, nghệ thuật của nước nhà từ rất sớm. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, hình ảnh chú ỉn được “phủ sóng” với mật độ tương đối dày từ tục ngữ, thành ngữ cho tới ca dao, câu đố…
Trước tiên, lợn được miêu tả gắn với đời sống lao động ở nông thôn, nêu lên những kinh nghiệm sản xuất: Lợn nhà gà chợ, Giàu lợn nái lãi gà con, Bí phân trâu bầu phân lợn, Nuôi lợn ăn cơm nằm nuôi tằm ăn cơm đứng… Lợn có khi xuất hiện một cách gián tiếp qua hành động băm bèo, gắn với cuộc sống của người bình dân còn nhiều khó khăn, vất vả: Bởi chưng bác mẹ em nghèo/ Cho nên em phải băm bèo thái khoai. Lợn còn hiện lên trong những bức tranh sinh hoạt đời thường, gắn với sự tần tảo thu vén của người phụ nữ, pha chút hài hước trào lộng: Đang khi lửa tắt cơm sôi/ Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem/ Bây giờ lửa đã nhóm lên/ Lợn no con nín tòm tem thì tòm. Chất hài hước nhiều khi chỉ đơn thuần mang tính giải trí, vui đùa chứ không cần ngụ ý gì đặc biệt: Ba bà đi bán lợn con/ Bán đi chẳng được lon ton chạy về/ Ba bà đi bán lợn sề/ Bán đi chẳng được chạy về lon ton. Lợn trong đời sống người Việt xưa kia cũng là một thước đo tài sản, sự giàu nghèo, là một trong những điều kiện cần thiết để các chàng có thể “rước nàng về dinh” do nhiều làng quê có tục khi trai làng muốn lấy vợ phải có lợn để làm cỗ hoặc nộp cheo cho làng thì mới được cưới: Cô kia đi chợ Hà Đông/ Để anh kết nghĩa vợ chồng cùng đi/ Anh đi chưa biết mua gì/ Hay mua con lợn phòng khi cheo làng; Anh là con trai nhà nghèo/ Nàng mà thách thế anh liều anh lo/ Cưới em anh nghĩ cũng lo/ Con lợn chẳng có, con bò thì không. Mặt khác, ngoài để làm cỗ, để nộp cheo cho làng, lợn còn là một trong những phần quà thách cưới của nhà gái: Mẹ em tham thúng xôi dền/ Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng. Lợn đi vào cả những bài học về ứng xử trong gia đình, giữa nàng dâu và bố mẹ chồng: Bố chồng là lông con lợn/ Mẹ chồng là tượng mới tô/ Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi. Ăn miếng thịt còn sót lông sẽ thực sự thấy khó chịu, thế mà vẫn phải chịu, ấy là sự nhẫn nhịn của phận làm dâu khi mới về nhà chồng. Sau cùng, lợn trong kho tàng dân gian gắn với chuyện… ẩm thực, lí do chính khiến mọi người nuôi lợn. Ca dao, tục ngữ về khía cạnh này rất phong phú: Con gà cục tác lá chanh/ Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi. Người Việt không chỉ thích ăn thịt lợn mà còn rất khoái lòng lợn, thường đi kèm với tiết canh và cháo lòng. Ngày nay, nhiều người vẫn có cách gọi tắt và vui là “lolotica”: Trông mặt mà bắt hình dong/ Con lợn có béo thì lòng mới ngon. Về lòng lợn, tồn tại song song cả hai quan điểm: chê lòng lợn là mất vệ sinh; thưởng thức lòng lợn như một khoái khẩu kì thú. Hai quan điểm này dẫn tới hai biến thể của cùng một câu tục ngữ: Thứ nhất phạm phòng thứ nhì lòng lợn (việc ân ái tình dục không đúng cách nguy hiểm chẳng khác gì ăn lòng lợn), và Thứ nhất động phòng thứ nhì lòng lợn (chuyện ăn lòng lợn cũng sung sướng như chuyện ái ân nam nữ). Sau này, lòng lợn còn đi vào câu thơ thuộc văn học dân gian hiện đại, vắt dòng theo phong cách Bút Tre: Buồn ra quán gọi đĩa lòng/ Lợn ngồi chễm chệ xơi xong rồi về.
Không chỉ đi vào thơ ca dân gian, lợn còn đi cả vào thi ca thành văn với không ít câu thơ hay, nằm trong những bài thơ nổi tiếng của các tác giả tên tuổi trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thi sĩ Nguyễn Bính, người được mệnh danh “nhà thơ chân quê” đã đưa lợn một cách rất tự nhiên vào câu lục bát nhằm miêu tả tâm trạng buồn nhớ nuối tiếc của chàng trai khi cô gái nhà bên đi lấy chồng: Lợn không nuôi đặc ao bèo/ Trầu không dây chẳng buồn leo vào giàn/ Giếng thơi mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà). Lợn còn đi vào một vài bài thơ khác của Nguyễn Bính gắn với không khí ngày Tết: Nuôi hai con lợn tự ngày xưa/ Mẹ tôi đã tính: “Tết thì vừa”…; Giết lợn, đồ xôi, lại giết gà/ Cỗ bàn xong cả từ hôm qua (Tết của mẹ tôi). Sau Nguyễn Bính, lợn đi vào bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Hoàng Cầm – Bên kia sông Đuống (1948) như một nét đẹp của văn hóa dân gian, của những bức tranh Đông Hồ gợi sự no ấm sung túc: Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Sau Hoàng Cầm, nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa cũng đưa được lợn vào câu lục bát khi tạo ra liên tưởng so sánh thú vị bất ngờ: Thân dừa bạc phếch tháng năm/ Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao (Cây dừa). Việc lợn xuất hiện với tính chất chi tiết của một bài thơ thì không khó tìm, nhưng trở thành đề tài chủ đạo làm nên hẳn một thi phẩm độc lập lại rất hiếm hoi. Năm Hợi của Lê Kim Giao là một trong những của hiếm ấy. Có thể coi đây là một bài thơ độc đáo, nhuần nhuyễn hòa quyện giữa chất dân gian và chất hiện đại, vui đấy mà vẫn man mác chút u hoài trong câu kết: Theo sau thím Tuất dáng thong dong/ Ủn ỉn quanh năm chốn hậu phòng/ Tấm cám đã cam tình nước lửa/ Bèo rau đâu quản tiết thu đông/ Ngại quyền tránh kẻ tìm khoanh cổ/ Ngóng bạn mời ai nếm tấc lòng/ Tranh Tết tươi cười xanh lộn đỏ/ Gặp Xuân là hết kiếp long đong…
Nói về lợn còn phải nhắc đến những câu chuyện, giai thoại, nhân vật để lại không ít bài học đáng suy nghĩ cho hậu thế. Trong kho tàng truyện trạng Việt Nam, Trạng Lợn là một trong những seri truyện tiếu lâm gắn với tên tuổi Dương Đình Chung, một nhân vật có thật, tương truyền sống vào đời vua Lê Thánh Tông, quê ở làng Dừa, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Trong những giai thoại về Trạng Quỳnh, vế đối độc đáo liên quan đến lợn khi đáp lại ông Tú Cát là một trong những giai thoại thú vị nhất: Lợn cấn ăn cám tốn – Chó khôn chớ cắn càn. Còn trong kho tàng truyện cổ tích của người Việt, nhắc đến nhân vật người bán thịt lợn không thể không nhớ tới câu chuyện Sự tích cây huyết dụ, được Nguyễn Đổng Chi kể lại trong bộ tuyển tập truyện cổ nổi tiếng của ông. Truyện kể về một người đồ tể hàng sáng tỉnh dậy đi mổ lợn theo tiếng chuông chùa của sư ông. Bỗng một ngày sư ông nằm mộng thấy một người phụ nữ chắp tay cầu xin đánh chuông chậm lại. Vậy là bác đồ tể dậy muộn hơn mọi ngày, bị lỡ mất buổi chợ, nhưng lại đầy bất ngờ khi thấy con lợn nhà mình đẻ ra năm chú lợn con. Xúc động về việc đã giết hại nhiều sinh linh, bác đồ tể cầm cả con dao bầu sang bộc bạch với sư cụ. Con dao cắm xuống sân, bỗng biến thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, đó chính là cây huyết dụ. Như vậy, một câu chuyện mổ lợn cũng có khả năng đánh thức, khơi gợi tính thiện trong mỗi con người.
Lan man chuyện Hợi trong kho tàng dân gian, đời sống sinh hoạt và thi ca của người Việt, ta thấy được sự phong phú, thú vị của ngôn ngữ cũng như văn hóa, cùng những bài học, những lời khuyên không ít sâu xa…
Đ.A.V
VNQD