. LÃ NGUYÊN
Thành Chương là nghệ sĩ có phong cách độc đáo bậc nhất trong làng mĩ thuật Việt Nam đương đại. Nhân tố cốt lõi tạo nên sự độc đáo ấy là hệ thống điểm nhìn vào thế giới của tác giả.
Thành Chương có một chùm tranh được ông đặt tên là “Thiên nhãn”. Cái tên ấy khiến người ta dễ liên tưởng tới biểu tượng “Thiên nhãn” của Kito giáo được cho là xuất hiện lần đầu trong bức Bữa ăn tối ở Emmaus (1525, sơn dầu, 230x173) của Jacopo Pontormo (1494 - 1557). Nhưng phân tích kĩ, tôi thấy “Thiên nhãn” của Thành Chương khác xa với “Thiên nhãn” của Kito giáo, của đạo Cao Đài, hay của các hội kín như Tam điểm (Freemasonry), Khai sáng (Illuminati)… Có thể điểm qua vài sự khác biệt như sau:
Thứ nhất, trong bức họa Bữa ăn tối ở Emmaus của Jacopo Pontormo, biểu tượng “Thiên nhãn” được tạo thành bởi hai chi tiết tạo hình trên mặt phẳng: đôi mắt đặt trong hình tam giác dựng đứng. “Thiên nhãn” trong nhiều bức họa của Thành Chương là những khối tạo hình lập thể nhiều tầng bậc. Ở đáy của khối lập thể ấy cũng có con mắt đặt trong hình tam giác, nhưng đó là tam giác ngược. Tôi rất thích một bức họa thuộc bộ Thiên nhãn của ông, trong đó tác giả vẽ sáu con mắt nằm trong bốn tầng lăng trụ tam giác ngược chồng xếp lên nhau. Tam giác dựng đứng trong Bữa ăn tối ở Emmaus của Jacopo Pontormo gợi cho ta ấn tượng về sự bình yên, vững chãi. Tam giác ngược, nhất là các lăng trụ tam giác ngược chồng xếp lên nhau, trong tranh Thành Chương lại tạo ra ấn tượng mạnh mẽ về sự chênh vênh, bất ổn. Lại nữa, không phải bao giờ tranh Thiên nhãn của Thành Chương cũng đặt con mắt vào hình tam giác: ở bức này, con mắt có thể được đặt vào nhiều đường tròn nối tiếp nhau với bán kính lớn dần; ở bức kia, nó được đặt vào đường tròn, đến lượt mình, đường tròn này được đặt trong hình tam giác, rồi lại đến nhiều đường tròn tiếp theo; ở bức khác, con mắt được đặt vào hình vuông, để từ những cái đáy ấy, các khối trụ hoặc khối lập phương được dựng lên.
Có hai điểm đáng suy ngẫm khi xem chùm tranh Thiên nhãn của Thành Chương. Trước hết, “Thiên nhãn” trong Bữa ăn tối ở Emmaus của Jacopo Pontormo biểu đạt một sức mạnh vô hình, thần bí, nhưng đó là một văn bản đơn nghĩa. Bầy chiên mộ đạo của Thiên Chúa, ai cũng hiểu “Thiên nhãn” là “mắt trời”, mắt của Chúa, hình tam giác là biểu tượng của Chúa ba ngôi, gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. Trong những bức họa của Thành Chương, “Thiên nhãn” là những hình tượng đa nghĩa. Họa sĩ sử dụng những chi tiết tạo hình có ý nghĩa tượng trưng quen thuộc làm chất liệu (mắt, tam giác, hình vuông, lăng trụ tam giác, khối trụ, khối lập phương), rồi nhào nặn, tổ chức chúng lại theo nhiều kiểu khác nhau để tạo thành những cấu trúc biểu nghĩa đa trị, cực kì mới lạ. Lại nữa, với khối tạo hình lập thể, hình tượng “Thiên nhãn” trong nhiều bức họa của Thành Chương tựa như mô phỏng cấu tạo bên trong của mắt người với những nhãn cầu, đồng tử (con ngươi), giác mạc, thủy tinh thể, võng mạc, cùng mạc… Nó cũng giống như cấu tạo bên trong của máy ảnh gồm thấu kính (giác mạc và thủy tinh thể) và tấm phim (võng mạc). Nêu lên giả định này, tôi muốn nói, với chùm Thiên nhãn, Thành Chương đã chuyển tới người xem tranh điểm nhìn thế giới từ chiều sâu tâm thức của tác giả - người sáng tạo. Phía sau các chi tiết tạo hình mang ý nghĩa tượng trưng rất đỗi quen thuộc - tam giác ngược gợi sự chông chênh; vòng tròn, khối trụ và khối lập phương là hình ảnh trời tròn, đất vuông; những đường sáng từ con mắt phóng chiếu lên đường tròn tạo thành luân xa gợi liên tưởng về vòng quay vũ trụ - hình như bao giờ cũng có cái nhìn nội tâm, từ chiều sâu, chứa đựng bên trong một phức cảm: nó vừa là cái nhìn bất an trước một thế giới bất ổn, vừa là cái nhìn an nhiên đầy cảm hứng lãng mạn về sự bền vững, trường cửu của hoàn vũ.
Thứ hai, bức họa Bữa ăn tối ở Emmaus của Jacopo Pontormo thể hiện một sức mạnh siêu nhiên, thần bí như là nội dung cốt lõi của thế giới quan tôn giáo ở thời Phục hưng. Với thế giới quan tôn giáo, biểu tượng “thiên nhãn” tạo nên sự đối lập giữa cõi thiêng với cõi tục. Ở đây “thiên nhãn” gắn với hình tượng “độc nhãn”, nó là “mắt trời”, mắt Thiên Chúa tỏa ánh sáng khải huyền từ bên ngoài không gian sinh hoạt của con người. Thành Chương xóa bỏ sự đối lập ấy nhờ tranh Thiên nhãn của ông lấy cảm hứng ở tín ngưỡng vật linh (animism) vốn có nguồn cội từ thời tiền sử trong văn hóa dân gian. Theo đó, “thiên nhãn” trước hết là “linh nhãn” của con người. Cho nên, xem tranh Thiên nhãn của Thành Chương, thấy hóa ra “linh nhãn” đồng nghĩa với “linh giác” và mọi giác quan của con người đều có thể trở thành “thiên nhãn”. Trong chùm tranh được gọi là Thiên nhãn của ông, hình tượng “thiên nhãn” nhiều khi được kiến tạo bằng cả một chùm mắt, có thể là ba mà cũng có thể lên đến sáu con mắt. Chúng không chỉ nằm trên trán, mà có trong óc, trong tim, trong dạ, dưới chân, trước ngực, bên hông, sau lưng…, chỗ nào trên cơ thể con người cũng có “thiên nhãn”. “thiên nhãn” còn là mắt của tạo vật muôn loài: vũ trụ có “thiên nhãn”, Y Tí có “thiên nhãn”, ngay cả hổ, mèo ở những bức tranh ông vẽ năm ngoái và năm nay cũng có “thiên nhãn”. Đưa cái thiêng xích lại gần cái tục, đặt các giác quan của con người ngang hàng với “mắt trời”, Thành Chương tạo ra một biểu tượng “thiên nhãn” hiện diện khắp mọi nơi bằng cặp mắt bên tròn - bên dẹt, hoặc bên dọc - bên ngang vô cùng ngộ nghĩnh, thể hiện sự dí dỏm mang linh hồn văn hóa dân gian.
Khái quát lại, có thể nói, trong sáng tác của Thành Chương, “thiên nhãn” không chỉ là đối tượng mô tả, mà còn là điểm nhìn vào thế giới của người sáng tạo. Cắm rễ sâu vào văn hóa dân gian, quan niệm về “thiên nhãn” của Thành Chương trở thành triết học nghệ thuật, làm nên chiều sâu tư tưởng và sự nhất quán về phong cách trong sáng tác của ông.
Nhìn vũ trụ qua lăng kính “Thiên nhãn”, tranh Thành Chương mở ra trước mắt người xem một hình tượng thế giới trong tâm thức, từ kí ức hiện về. Bức họa nào của Thành Chương cũng tựa như là sự nhớ lại một kí ức đã qua. Thế giới trong sáng tác của ông là thế giới của cõi nhớ, thế giới của những giấc mơ. Ông vẽ Giấc mơ đỏ, Giấc mơ buổi chiều, Kí ức ngọt ngào. Những ngày giãn cách bí bức vì đại dịch covid, ông vẽ Y Tí trong cõi nhớ và đặt tên tranh là “Nhớ Y Tí”. Tôi tin cây cầu Long Biên trong nhiều bức họa tuyệt vời của ông là cây cầu của những giấc mơ về một vẻ đẹp lí tưởng. Tôi thấy ông tạo ra hình ảnh trong tranh không phải là để kể hay tả một cái gì đó, mà là để biểu đạt một nội dung không thể nắm bắt của những giấc mơ về một thời xa xăm. Trăng cốm, Trăng thanh, Ngày nắng, Ngày vui, Chơi đùa cùng trâu, hay Đôi uyên ương, Đôi bạn trẻ đều là hình hài của những giấc mơ về những gì chỉ còn đọng lại trong kí ức. Đôi khi ông cũng vẽ lại kí ức về những chuyện rất gần, ví như các bức Cô gái mở đường, Về quê, Ngồi im thời covid...
Cơ sở để kiến tạo hình tượng thế giới trong văn bản nghệ thuật là kiểu quan hệ xã hội của nghệ sĩ với hiện thực đời sống. Quan hệ xã hội của nghệ sĩ với hiện thực đời sống dẫu đa dạng đến đâu vẫn có thể xếp vào ba loại, mỗi loại cung cấp cho hình tượng thế giới một loại hình nội dung làm nên thể tài (genre) của tác phẩm: dân tộc - lịch sử, phong tục - thế sự và đời tư. Các loại hình nội dung này đều là sản phẩm của lịch sử, chịu sự quy định của tiến trình vận động xã hội. Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, gồm cả thơ, văn, nhạc, họa, lấy nội dung dân tộc - lịch sử để kiến tạo bức tranh thế giới. Nó tạo ra một hình tượng thế giới bổ đôi, chia thành hai cực địch - ta đối chọi với nhau như nước với lửa. Trong thế giới ấy, “địch” là “chó ngộ một bầy”, là “hổ báo hôi tanh hại người”; “ta” - “mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao”, ai cũng là “chiến sĩ”, tất cả thành cháu con một nhà để cùng “hành quân” vui như trẩy hội (tranh Nguyễn Thụ và Huy Oánh). Với hình tượng thế giới như vậy, nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa là nghệ thuật sử thi, nghệ thuật truyền thuyết. Tranh của Thành Chương không có hình tượng thế giới như vậy. Thời trẻ, Thành Chương từng nhiều năm làm lính, phục vụ trong quân ngũ. Nhưng xem tranh của ông, tôi không thấy bóng dáng của chiến tranh với một thế giới phân cực, bổ đôi như vừa nói. Bức Cô gái mở đường xuất hiện trong gia tài nghệ thuật của ông như một trường hợp ngoại lệ. Có lẽ đó là tác phẩm duy nhất được ông sáng tác để dựng tượng đài cho những cô gái thanh niên xung phong nhằm ghi lại một truyền thuyết đầy màu sắc huyền thoại trong lịch sử chiến tranh hiện đại của dân tộc. Chuyện đời tư xuất hiện trong lịch sử nghệ thuật muộn nhất, vì nó lấy quan hệ cá nhân của con người làm nội dung kiến tạo bức tranh thế giới. Chùm Chân dung tự họa và những bức như Tình yêu II, Đôi uyên ương, Giấc mơ đỏ… là những tác phẩm thuộc thể tài này. Nhưng tranh về đời tư cũng không phải là mảng lớn nhất trong gia tài mĩ thuật của Thành Chương.
Mảng lớn nhất, thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật của Thành Chương là tranh phong cảnh và phong tục. Phong tục là quan hệ thế sự đã định hình thành trạng thái ổn định. Tôi nhớ Heinrich Wolfflin (1864 - 1945), nhà nghiên cứu lí thuyết và lịch sử nghệ thuật người Thụy Sĩ, có một ý kiến quan trọng. Ông phân tích rất nhiều tranh để rút ra kết luận, rằng có ba nhân tố quyết định sự tiến hóa của lịch sử nghệ thuật như là sự biểu hiện của phong cách: thời đại, dân tộc và khí chất nghệ sĩ. Thật vậy, chẳng hạn đọc những bài thơ của thần đồng thơ Trần Đăng Khoa viết những năm cuối thập niên 1960 sẽ thấy thời đại với phong cách nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa đã thấm sâu vào vô thức tập thể, chi phối phong cách của người sáng tác mạnh mẽ như thế nào. Khi ưu tiên hàng đầu cho thể tài dân tộc - lịch sử, thì lâu đài văn học phong tục do các bậc đại bút Ngô Tất Tố, Kim Lân, Tô Hoài, Vũ Bằng… xây nền đắp móng đành tạm thời ngủ im trong khu rừng sử thi và truyền thuyết rất đỗi um tùm cho mãi tới hồi Đổi mới.
Nhưng với họa sĩ Thành Chương và lịch sử mĩ thuật Việt Nam đương đại thì tình hình không hẳn là như vậy. Năm 1957, cậu bé Nguyễn Thành Chương mới lên tám đã đem Đôi gà tồ trình trước thiên hạ trong một triển lãm tranh thiếu nhi quốc tế được tổ chức tại Anh. Và tác phẩm giành giải thưởng lớn: giải Vàng. Đôi gà tồ chính là bức vẽ phúng dụ về trạng thái nhân thế yên bình, hòa mục, đầy tình thương yêu của thế giới con trẻ, được nhìn qua lăng kính của con trẻ. Với bức vẽ này, thần đồng hội họa, và là danh họa trong tương lai, tựa như đứng ngoài thời đại mĩ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ở đây khí chất cá nhân đã quyết định xu hướng phong cách của người sáng tác và có ảnh hưởng không nhỏ tới lịch sử mĩ thuật dân tộc. Dòng tranh phong tục khởi nguồn từ các danh họa thế hệ “mĩ thuật Đông Dương” với những Chơi ô ăn quan, Người bán gạo, Người bán ốc của Nguyễn Phan Chánh, Đấu vật, Chọi trâu của Nguyễn Sáng, Đánh cờ dưới bóng tre của Nguyễn Tư Nghiêm… đã không bị khô cạn, đứt mạch nhờ sự xuất hiện rất sớm của Thành Chương. Tôi tin Thành Chương có ý thức và tự tin vào đường đi mà ông đã lựa chọn từ thuở ấu thơ. Riêng năm 2017, Thành Chương vẽ không biết cơ man nào là tranh gà. 60 bức trong số đó được ông chọn cho triển lãm kỉ niệm sinh nhật lần thứ 60 của Đôi gà tồ gây được tiếng vang trong cộng đồng yêu mĩ thuật. Ông có hàng nghìn bức vẽ trâu bên các chú mục đồng. Đó là những bức vẽ mang lại danh tiếng cho một phong cách lớn. Hàng nghìn bức tranh trâu, tranh gà và những con giáp khác cùng bộ tranh vẽ cầu Long Biên, với những Trăng thanh, Trăng cốm, Ngày nắng, Ngày vui, Phong cảnh Y Tí hay Đất và người Hà Giang đã đặt Thành Chương vào vị trí hàng đầu của tranh phong tục và phong cảnh trong làng mĩ thuật Việt Nam.
Hình tượng thế giới trong tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng được bao bọc trong cảm hứng thẩm mĩ. Chính cảm hứng thẩm mĩ biến hình tượng thế giới trong nghệ thuật thành những cấu trúc giá trị có chức năng biểu nghĩa. Người xem tranh nhận ra các xu hướng cảm hứng thẩm mĩ qua bốn phạm trù gốc: bi, hài, đẹp và cao cả. “Đẹp” - hiện thân của sự hài hòa - là phạm trù trung tâm, “bi”, “hài” và “cao cả” là những biến thể của nó. Tạng nghệ sĩ của Thành Chương hình như không hợp với cái hào hùng - cao cả. Tôi chỉ bắt gặp đôi lần trong vài bức tranh của ông cảm hứng về cái bi với những sắc thái khác nhau: bi thảm trong Về quê, bi hài trong Ngồi im thời covid và bi tráng trong Cô gái mở đường. Trong mĩ thuật hiện đại và hậu hiện đại, cái hài nhiều khi được đẩy lên thành cái méo mó, nghịch dị (grotesque). Những hình tượng nghịch dị như thế hoàn toàn vắng bóng trong tranh của Thành Chương. Dĩ nhiên tranh Thành Chương không xa lạ với cái hài. Nhưng cái hài trong sáng tác của ông thường dừng lại ở sự ngộ nghĩnh, dí dỏm, như một khía cạnh của cái đẹp.
Gần như toàn bộ sáng tác của Thành Chương hợp lại với nhau để cất lên cảm hứng về cái đẹp. Là họa sĩ hàng đầu của dòng tranh phong tục, Thành Chương suốt đời dùng hình khối, đường nét và màu sắc để tấu khúc hát về vẻ đẹp của tình người. Xem tranh của ông tôi thấy tựa như được nghe những khúc ca tình tứ và trong trẻo mang âm hưởng của hát chèo và những làn điệu quan họ về tình yêu, tình bạn thời thơ trẻ, tình gia đình và bao trùm lên tất cả là tình quê với con gà, con trâu, với bến nước, triền đê, đình chùa cổ kính và những ngày hội phấp phới cờ ngũ sắc, rộn rã tiếng trống làng. Thành Chương vẽ phong cảnh, như cảnh Y Tí, cảnh Hà Giang, cảnh trăng cốm, trăng thanh, trăng nõn, cảnh những chú mục đồng ngửa mặt trông trăng, chơi đùa với trâu, với cánh diều, cây sáo… cũng là để ca hát về vẻ đẹp của tình quê như vậy. Những bức vẽ của ông chỉ gợi ra ý niệm về cái đẹp, nhưng cái đẹp vẫn hiện lên lồ lộ với nhiều sắc thái mĩ cảm khác nhau. Tôi rất thích vẻ đẹp rạng rỡ sắc màu của Y Tí, hay vẻ đẹp của “đất Hà Giang” tựa như cô gái nõn nà nằm giữa trời mây nương rẫy, nhất là vẻ đẹp phồn thực đầy nhục cảm ở bức Tòa thiên nhiên, hay bức Mầm sống…
Như đã nói, hình tượng thế giới trong tranh Thành Chương là hình tượng trong giấc mơ, hiện về từ kí ức. Trong giấc mơ của nghệ sĩ, mọi vẻ đẹp đều trở thành hiện thân của cái lí tưởng, trường tồn với thời gian. Ông gọi cầu Long Biên là “CẦU VÀNG LONG BIÊN - PAUL DOUMERE”, là “dải đăng ten vắt ngang bầu trời”, là “cầu vàng lung linh sắc màu cổ tích của tôi”. Có lần Thành Chương vẽ cầu Long Biên như con rồng uốn lượn giữa lung linh vàng son và hình như ông đã hào phóng dùng màu vàng thật nhiều, nhiều tới mức thừa thãi để lí tưởng hóa cây cầu lí tưởng ấy. Hiện về trong giấc mơ, từ kí ức, vẻ đẹp trong tranh của Thành Chương thật xôn xao, nhưng cũng vắng vẻ, tựa như lúc nào cũng khoác lên mình tấm áo dệt bằng nỗi buồn nhuốm màu hoài cổ.
L.N
VNQD