Vạch trần chính sách phi nhân tính để kết tội chủ nghĩa thực dân – Một phương thức lập luận của Nguyễn Ái Quốc

Thứ Ba, 28/02/2023 08:52

. NGUYỄN HẢI YẾN
 

Thời hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc lấy báo chí làm phương tiện để vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân một cách rất hiệu quả. Bài viết bước đầu xin tìm hiểu một vài nét về chính sánh phi nhân tính của chủ nghĩa thực dân.

Chính sách cai trị của thực dân Pháp là bóc lột là ngu dân, là cấm đoán, là tìm mọi cách để đưa dân tộc An Nam trở về thời nô lệ. Nguyễn Ái Quốc mỉa mai chính sách tàn bạo ấy qua một giả thiết - giả thiết nghịch lý để nói về một sự thật nghịch lý ở Đông Dương: “Một khi chúng tôi là người Pháp, lập tức chúng tôi sẽ gửi một đoàn khai hoá đến khắp nước Pháp. Chúng tôi sẽ làm cho đất nước người Gôloa ngập lụt rượu và thuốc phiện. Ở đây, chúng tôi sẽ đánh thuế muối, thuế nhập thị, sẽ cho bắt giam theo lệnh hành chính, phạt tiền tập thể, sẽ cho mở những toà án đặc biệt để đàn áp, hoạt động thường xuyên, lập kiểm duyệt, v.v. và v.v... Nói gọn lại, chúng tôi sẽ làm lại ở đây tất cả những gì mà những kẻ nguyên là bề trên của chúng tôi đã làm trên đất nước chúng tôi, cho chúng tôi hoá ra là người Pháp”[1].

Nhà cách mạng đã đối thoại một cách suồng sã nhất với chế độ thực dân. Vì với kẻ giết người, có gì mà phải kính trọng, tôn trọng.

Theo lôgich tâm lý thông thường người ta chỉ có thể suồng sã được với nhau khi đã hiểu chân tơ kẽ tóc về nhau, chẳng ai dám suồng sã với người lạ. Để mỉa mai chế giễu nhau người ta thường tìm ra những điểm yếu nổi bật của nhau. Nguyễn Ái Quốc đã mỉa mai “dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã đem vào An Nam tất cả cái chế độ trung cổ đáng nguyền rủa” bằng chính sách kết hợp sự “ngu xuẩn và đểu cáng” của các quan cai trị và “cây thánh giá của Hội Thánh đĩ bợm”: “Các quan cai trị cả lớn lẫn bé, được nước mẹ giao vận mệnh xứ Đông Dương cho, nói chung đều là những bọn ngu xuẩn và đểu cáng. Hội Thánh chỉ cần nắm được trong tay một vài giấy tờ bí mật, thuộc đời riêng, có tính chất nguy hại đến thanh danh, địa vị của các quan, là có thể làm các quan hoảng sợ và phải chiều theo ý họ muốn. Chính vì thế mà một viên toàn quyền đã nhường cho nhà chung 7.000 hécta ruộng đất sa bồi của những người bản xứ, ấy thế là những người bản xứ này trở thành những người đi ăn xin.

Phác qua như thế, chúng ta thấy rằng dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã đem vào An Nam tất cả cái chế độ trung cổ đáng nguyền rủa, kể cả chế độ thuế muối; rằng người nông dân An Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của Hội Thánh đĩ bợm”[2].

Người đối thoại Nguyễn Ái Quốc mượn lời một nhân vật: “Ông Cuốctelơmăng kể chuyện một cách mỉa mai: Tôi có quen một ngài có một lối khai hoá thật đáng học tập. Khi ngài ta ra khỏi cửa, các xe kéo, theo một thói quen như những người đánh xe ngựa ở bên Pháp, xô đến mời ngài. Bực mình quá, ngài nắm chắc batoong trong tay, quật vào những người culi, và thừa biết rằng những người culi khốn khổ này chẳng thể ăn miếng trả miếng với ngài, ngài ta càng ra tay quật. Buổi chiều ngài muốn đi chơi, nhưng culi xe đã biết tính ngài, không dám lại gần ngài nữa. Thế là ngài lại với họ, rồi cầm cái gậy quý hoá của ngài, quật lên lưng họ để dạy dỗ cho họ biết phải đến hầu ngài. Ngài ấy bảo: “Vả lại, biết làm thế nào được với cái hạng người ấy, dù chúng đã gần gũi chúng mình bấy lâu nay mà vẫn chưa dám ăn thịt quay!”. Người ta nghe thấy vô số người Pháp, và không phải là hạng kém cỏi gì đâu- lý luận như thế đấy”[3].

Chủ thể của lời văn suồng sã thường xuất hiện qua lời bình luận mỉa, thường là “ý tứ” để trong ngoặc đơn: “Một nhà truyền giáo (Vâng! một vị linh mục nhân từ) nghi một học sinh trường thầy dòng người bản xứ ăn cắp của mình 1.000 đồng, ông ta trói người học sinh này lại, treo lên xà nhà, tra khảo. Người học sinh đáng thương ấy ngất đi. Họ hạ anh xuống. Khi anh hồi tỉnh, họ lại treo lên tra khảo. Anh đã gần chết. Có lẽ hôm nay thì chết rồi.

Vân vân và vân vân.

Toà án có trừng phạt những tên đó, những con người đi khai hoá đó hay không?

Có tên thì trắng án, có tên thì không ai đụng đến lông chân. Sự tình là như vậy”[4]. Nói mỉa cũng tức là nói ngược, bạn đọc hiểu: “Vâng! một vị linh mục nhân từ” phải là “Vâng! một vị “linh mục” tàn bạo!”. Và tàn bạo thật, có tàn bạo mới tra tấn rồi đánh chết người vô căn cứ như thế.

Bản án chế độ thực dân Pháp được Nguyễn Ái Quốc cho in lần đầu tại Pari, xét đến thời điểm ra đời có thể coi như là một trong những bản kết tội đanh thép nhất, lay động lòng người cao nhất, có sức thuyết phục nhất về tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các nước thuộc địa. Trào phúng là bút pháp chủ đạo để tác giả đả kích, mỉa mai, châm biếm sâu cay chiến tranh mà thủ phạm chính là chủ nghĩa thực dân. Vì sao Nguyễn Ái Quốc chọn bút pháp này? Thứ nhất, đây là sự đối thoại với những tên thực dân và nhân dân Pháp, mà văn hóa Pháp có truyền thống hài hước nên sự tiếp nhận sẽ rộng rãi hơn. Hai là, do chính đặc trưng đối tượng. Với những kẻ xấu xa như thế thì dùng tiếng cười mổ xẻ, phanh phui để tố áo, lên án là đích đáng nhất!

Những kẻ gây ra chiến tranh đồng nghĩa với những kẻ lừa đảo dối trá: “Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “Annamít”
bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". Nhưng họ đã phải trả bằng một giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Bancăng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì đã anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mácnơ, hoặc trong bãi lầy miền Sămpanhơ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”[5].

Đoạn văn là tầng lớp các hình ảnh tương phản. Cùng một hình tượng dân bản xứ nhưng trước 1914 và sau đó thì khác hẳn, trước 1914 là “những tên da đen bẩn thỉu, những tên "Annamít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn…”. Sau 1914 lại là “những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa”. Thậm chí họ được xưng tụng là “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”. Lại một sự tương phản tiếp theo: “để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào”. Họ phải trả giá cho “cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do" bằng cái chết thảm thương: “phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu”… Và đặc biệt là sự tương phản gay gắt: “lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”. Một sự tương phản qua cách nói vòng. Nếu nói thẳng: họ chết để các ngài thực dân hưởng lợi thì là nói trắng ra không còn gì là hài hước mỉa mai; phải cho câu văn “vòng vèo” để chêm vào đó những danh tính từ đáng phỉ nhổ. Ý nghĩa phổ quát từ hình thức tương phản này toát lên một sự thật: sự không thể dung hoà giữa chủ nghĩa thực dân và các dân tộc thuộc địa. Chủ nghĩa thực dân là chiến tranh, là dối trá, là sống trên máu xương của người dân thuộc địa!

Để diễn tả chính sách giả dối tàn bạo của thực dân Pháp thì chỉ những câu văn như thế này mới nói lên được bản chất của vấn đề: “Ở đây, chúng tôi không nói về những vụ âm m­ưu nổi tiếng trong năm 1908 hay 1916. Lúc đó, nhiều thần dân bảo hộ số đỏ của n­ước Pháp đó được may mắn nếm đủ mùi ân huệ của nền văn minh thực dân hiền hoà trên máy chém, trong nhà tù hay ở những nơi bị đưa đi đày. Những vụ âm m­ưu ấy đã qua lâu rồi, và bây giờ chỉ còn lại những nét ảm đạm trong trí nhớ của ngư­ời dân bản xứ đã héo mòn vì đau khổ”[6]. Những cụm từ mỹ miều: “bảo hộ số đỏ”, “ân huệ”, “văn minh”, “hiền hoà” hoàn toàn trái nghĩa với “máy chém”, “nhà tù”, “đi đày”!

Ở ngay trên đất Pháp, dùng cách hoạt động báo chí công khai trực diện để công kích chủ nghĩa thực dân, ngay điều đó đã nói lên phẩm chất dũng cảm, tinh thần yêu con người, yêu lẽ công bằng lớn lao ở tác giả!

N.H.Y


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Nxb Chính trị Quốc gia, 2011, tr 202.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 249.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 389.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 104.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2. Sđd, tr 26.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1. Sđd, tr 51.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Vòng quay ra con số vòng xoay ra phận đời

Tôi nhớ cho đến đầu năm lớp 9, một đêm Dưỡng đạp xe qua nhà tôi cho lại bộ sách rất mới. Dưỡng bảo nghỉ học. Chỉ vậy thôi rồi Dưỡng đi... (TỐNG PHƯỚC BẢO)

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)