. NGUYỄN HẢI DƯƠNG
Văn hoá trào phúng phương Tây được nhiều nghiên cứu khái quát vào khái niệm “cácnavan” với bốn đặc điểm nổi bật: sự xúc tiếp tự do suồng sã giữa người với người; tạo ra những hình tượng “kì quặc nực cười”, xây dựng những cặp mâu thuẫn trào phúng; và cuối cùng là sự báng bổ, hạ bệ cái đáng cười. Rất thú vị, bốn đặc điểm này được một người Việt Nam vận dụng nhuần nhuyễn trong một truyện cười – Vi hành!
Truyện ngắn Vi hành được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân Đạo, số ra ngày 19/2/1923 đúng vào dịp vua Khải Định được chính phủ Pháp đưa sang dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mác – xây. Truyện có giọng điệu chủ đạo là giọng mỉa mai với đại từ “hắn” chỉ Khải Định xuất hiện tới 12 lần. Là vua của một nước đến thăm một nước khác thế mà lại bị người dân nước này gọi là “hắn”. Cách gọi này đã vượt qua ranh giới cuối cùng của phép lịch sự ngoại giao tối thiểu để đến với sự khinh miệt. Nếu có gọi là “vua” thì họ cũng gọi mỉa mai, xách mé là “anh vua” chứ không gọi một cách trang trọng là “vị vua”, nhà vua”, “đức vua” và cũng chẳng gọi một cách bình thường, “trung tính” là “ông vua”. Đáng chú ý là cách gọi ấy không chỉ ở một người, hai người mà ở rất nhiều người: “Những tiếng “hắn đấy!” hay “xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng ta thường gặp dọc đường”. “Thường gặp dọc đường” nghĩa là ở nhiều nơi và gặp nhiều người chứ không phải chỉ ở một hai địa điểm, gặp một số ít người. Điều này chứng tỏ, trong cái nhìn của người dân Pháp, Khải Định không phải là một vị khách mời của nước Pháp, mà ngược lại chỉ là một vật để “xem” cho vui, để chế giễu, để mỉa mai mà thôi.
Nước Pháp lúc bấy giờ (1923) đã sang thời dân chủ với Tổng thống đương nhiệm là Alêchxăng Milơrăng. Thế mà vị Tổng thống này lại bị người kể chuyện (Nguyễn Ái Quốc) gọi một cách cạnh khoé là “Alêchxăng đệ nhất”. “Đệ nhất” là danh hiệu dùng để chỉ vua chúa thời phong kiến quân chủ nhưng lại được Nguyễn Ái Quốc dùng để gọi một vị Tổng thống thời dân chủ, có nghĩa là đã coi cả một thể chế dân chủ kia chỉ là giả hiệu, thực chất vẫn chỉ là quân chủ, vẫn là phong kiến chẳng có gì là dân chủ cả. Chỉ bằng hai con chữ tác giả đã hạ bệ, đã vạch trần, đã xé toang bức màn chính trị giả dối để trơ ra bộ mặt không hề dân chủ trơ trẽn giả tạo, không phải chỉ của một người (Tổng thống Pháp) mà còn là của cả một chế độ, một nhà nước (thực dân Pháp). Người ta nói sức mạnh của ngôn từ có khi sánh ngang với một đạo quân lớn. Điều ấy phải chăng đúng với trường hợp này!
Đối tượng trào phúng mà tác phẩm hướng đến là Khải Định và chính quyền thực dân Pháp. Khải Định vẫn là kẻ bị hứng chịu nhiều nhất những làn roi đả kích quất thẳng vào hắn. Vi hành được viết bằng tiếng Pháp, viết cho người Pháp đọc, dĩ nhiên nó phải mang dấu ấn văn hoá Pháp. Biểu hiện của văn hoá trào phúng dân gian rất phổ biến ở châu Âu trong Vi hành.
Trong Vi hành các nhân vật đều quan hệ với nhau theo nguyên tắc suồng sã: đôi trai gái - Khải Định (tôi); “tôi” - Khải Định; “tôi” - Tổng thống Pháp, hay thân mật: đôi trai gái; “tôi” - cô em họ. Đôi trai gái nhầm “tôi” là Khải Định nên tha hồ nói về Khải Định rất chi là “suồng sã”. Người ta không thể suồng sã với nhau nơi tôn nghiêm mà chỉ có thể ở một nơi, một môi trường có thể suồng sã, cái nơi mà M.Bakhtin gọi là không gian “quảng trường cácnavan”. Ở một không gian mang tính công cộng, “quảng trường” này con người mới dễ dàng tiếp xúc, dễ dàng cười cợt và cũng dễ dàng “báng bổ” nếu có thể. Nguyễn Ái Quốc đã cho Khải Định xuất hiện (trong sự nhầm lẫn của người Pháp) ở những nơi như vậy để người dân Pháp tha hồ mà “suồng sã” với một “anh vua”: tiệm cầm đồ, xe điện ngầm, trường đua, nhà hát múa rối, kho hành lý nhà ga… Cácnavan luôn tạo ra những hình tượng “kì quặc nực cười”, và Khải Định hoàn toàn “xứng đáng” có “bộ mặt nực cười” với “cái mũi tẹt”, “đôi mắt xếch”, “cái mặt bủng như vỏ chanh”. Trong cácnavan, để tạo ra các hình tượng “kì quặc nực cười” người ta tạo ra “việc dùng ngược các đồ vật”. Ở phương diện này, Khải Định còn “xứng đáng” hơn với “có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn” hay dùng đồ vật không đúng lúc, đúng chỗ “các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn”, “đeo lên người… đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm”. Khải Định cũng thuộc loại hình tượng phỏng nhại, chúng tôi gọi là hình tượng “phỏng nhại hành vi”. Các vị vua yêu nước yêu dân như vua Thuấn hay vua Pie “vi hành” để tìm ra con đường làm giàu cho dân cho nước, còn Khải Định cũng “vi hành” nhưng là ngược lại (bị nhại lại) để ăn chơi bừa bãi….
Tiêu biểu cho tư duy cácnavan là những hình tượng cặp đôi, được nhóm lại theo sự tương phản và tương đồng. Chúng ta thấy trong Vi hành có những “cặp đôi”: đôi trai gái; “tôi” và Khải Định; Khải Định và chính quyền Pháp; “tôi” và “cô em họ”, “tôi” và những kẻ theo dõi “bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng”. Trong đó “cặp” “tôi” và Khải Định vừa tương phản vừa tương đồng, tương đồng ở chỗ người dân Pháp (và cả chính quyền Pháp hết sức quan liêu) lẫn lộn “tôi” và Khải Định (vì giống nhau - đều là người An Nam). Tương phản thì bạn đọc dễ nhận ra: một “anh vua” bán nước và một người dân yêu nước đang đi tìm đường cứu nước; một kẻ ăn chơi đàng điếm ngu ngốc (Khải Định không biết tiếng Pháp, không hề biết về văn hoá Pháp) và một trí tuệ lớn (“tôi” rất giỏi tiếng Pháp, am hiểu sâu sắc lịch sử, văn hoá Pháp…). Chúng ta thấy toát lên các cặp mâu thuẫn trào phúng sau: cái thiêng liêng (vua Thuấn, vua Pie vi hành) với cái thấp hèn (việc Khải Định “vi hành”); sự sang trọng, tôn nghiêm (danh hiệu vua) với sự cười đùa, cợt nhả (Khải Định như thằng hề); trí tuệ sắc sảo (của “tôi”) với sự ngu dốt (của Khải Định ); sự nghiêm túc, lịch sự (nhà vua một nước sang thăm nước khác) với cái phàm tục (Khải Định “vi hành” lén lút)… Đây cũng chính là những cặp mâu thuẫn trào phúng cơ bản của cácnavan.
Sự báng bổ cácnavan được biểu hiện cụ thể trong Vi hành là ở lời văn mỉa mai. Trong tác phẩm đầy những sự nói mỉa, nói ngược, chơi chữ, so sánh, tương phản, nói vòng… với mục đích trào phúng. Nói mỉa để châm chọc. Lời văn hướng tới đả kích nhiều đối tượng. Trong 3 câu văn ngắn sau: “Và thế là cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn ráo như B.Đ.D. Nhật báo chẳng còn gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì…”, ít nhất có mấy đối tượng sau bị đưa ra để nhạo báng, cười cợt: xã hội Pháp (lúc bấy giờ) thật nhạt nhẽo, vô vị (kho giải trí sắp cạn ráo…); Nhà băng Đông Dương thật nghèo túng (sắp cạn ráo như B.Đ.D); báo chí “bôi bác” (nhật báo chẳng còn gì để bôi bác lên giấy); và Khải Định thì như một trò giải trí, trò tiêu khiển… Thậm chí chỉ trong một mệnh đề của câu văn dài: “Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình…” thì chân tướng của cả “chính phủ” và khách bị lột trần: khách chẳng ra gì và “chủ nhà” cũng thật chẳng ra gì! Câu văn giằng co trong thế mâu thuẫn, tương phản: “…có được sung sướng, có được quyền uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện…”; “Những tiếng “hắn đấy!” hay “xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng…”. Và chơi chữ: “Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?”. Trong câu văn tương phản trên được cấu trúc rất tinh tế với chữ “ngài” được đặt giữa câu văn như bị co kéo giữa hai tình huống đối lập: làm một ông vua to và nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé, đã bật ra ý mỉa mai, nói theo một phương ngữ người Việt, “no cơm ấm cật, giậm giật mọi nơi”. Trong câu văn còn thể hiện một cách chơi chữ tinh quái với danh từ “công tử bé” (petit duc) bởi danh từ này làm bạn đọc liên tưởng đến danh từ “đại công tước” (grand duc). Mà “đại công tước” (grand duc) trong tiếng Pháp cũng có nghĩa là những kẻ ăn chơi bừa bãi. Ý vị hài hước dí dỏm toát ra: Khải Định đã là một ông vua to rồi, chẳng muốn làm những kẻ ăn chơi “to” nữa, thôi thì “nếm thử cuộc đời” của những kẻ ăn chơi “bé” vậy! Rồi cách nói vòng. Trong đoạn gần cuối: “Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ… khi được đối đãi như thế?” là sử dụng cách nói vòng rất hay gặp trong truyện cười dân gian Việt Nam. Nếu nói thẳng ra: Chính phủ bèn phái mật thám đi theo dõi gắt gao mọi người An Nam, thì chất muối hài trào phúng sẽ không còn. Phải cho câu văn “vòng vèo” để tác giả “chêm” vào những lời nói mỉa: “Chính phủ bèn đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa…” “Các vị bám lấy đế giày tôi…” … Cách nói vòng đã mang hiệu quả nghệ thuật lưỡng tính: vừa tránh nói sự thật (nhưng người đọc vẫn hiểu sự thật) để lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc “tò mò” đi theo mạch văn “vòng vèo” này; vừa tạo ra khoảng trống để nhà trào phúng “cài” vào đấy những tiếng cười ngộ nghĩnh khác. Và so sánh:
“- Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công gô; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đấy...”.
So sánh “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên”, “tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công gô” với “vua” thì có nghĩa là đã “đánh đồng”, đã “cào bằng” “vua” cũng chỉ ngang hàng với bọn “vợ lẽ nàng hầu...” và “tụi làm trò...” kia mà thôi. Thậm chí “giá trị” của “vua” còn rẻ mạt hơn bởi xem “vợ lẽ nàng hầu...” và “tụi làm trò...” còn mất “những nghìn rưởi phrăng”, còn xem ”vua” thì chẳng “mất tí tiền nào”. Chính vì thế mà câu văn “Nghe ông bầu Nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đấy...” có mặt một cách thật lôgich, tự nhiên, hợp lý. Đã gọi là “ông bầu” thì bao giờ cũng phải sành sỏi thương trường và thị hiếu công chúng. “Ông bầu Nhà hát Múa rối” đã nhận ra ngay một cơ hội kiếm tiền vừa “thuê” rẻ một con rối, con hề là Khải Định vừa làm thoả mãn trí tò mò của công chúng Pháp. Chỉ bằng mấy câu văn có sử dụng phép so sánh đối chiếu mà con người Khải Định hiện ra thật thê thảm. Phép so sánh như một luồng gió mạnh thổi tắt, thổi bay những ánh hào quang từ những nào là vương miện, long bào rồi hoàng bào... của vị “hoàng đế Annam” để chỉ còn trơ ra chân dung một... con rối “vua” ngờ nghệch, lố bịch. Đó là cách kể “lột mặt nạ” rất trào phúng!
N.H.D
VNQD