Về đến đầu làng
Đặt ba lô lên gốc tre cằn
Chạm vào rễ gặp một thời xa quá
Vi vút sáo diều bờ tre neo biển lúa
Quạt mo thuốc lào lưng trần hát dân ca
Những cây tre còng xuống trước tuổi già
Mùa lá rụng phơi nước da đỏ lựng
Hương lúa ngạt ngào chao lời chim rưng rứng
Lớp măng vòi từ nách mẹ xìa lên
Áo trẻ nhuộm bùn say nắng cánh diều tiên
Nghĩa địa làng đì đùng chơi trận giả
Bom ném đàn trâu ngọn dừa gục lả
Một thoáng chiều lá rụng mấy mùa thu…
Ngang dọc hầm hào đằm ngọt lời ru
Cây đề cây đa thành chòi canh vọng gác
Giọt sữa mẹ có hương nồi cháo mướp
Vị cua đồng rau bợ nấu canh
Giọt mồ hôi chiều nắng khô hanh
Mặn chát miếng cơm đồng tháng sáu
Những quả núi nghìn năm không mặc áo
Thương chim cò mở thật nhiều hang
Những bữa tìm tôi mẹ réo khắp làng
Tiếng “cu ơi” bây giờ thành giai thoại
Chái nhà nhỏ cọng rơm vương lại
Bầy chim con ăn chẳng hết cào cào
Giữa rừng già mở cơm nắm mo cau
Hiện tán sóng dưới chân cò từ câu ca dao mẹ ru hời tuổi nhỏ
Ráng đỏ ráng vàng lưng mẹ còng gốc lúa
Bùn ám móng chân chua suốt một thời
Hạt gạo chia tư cõng mấy miếng khoai
Mẹ nuôi cánh đồng như nuôi con sài đẹn
Mùa lụt mùa khô lúa trầm lúa nghẹn
Trên tấm lưng làng những mùa đẫm mồ hôi
Chạm gốc tre cằn như chạm sóng biển khơi
Sâu kí ức bao nhiêu điều bật dậy
Đất làng chín thơm lừng hoa trái
Mỗi dáng người một dáng phù sa
Những cây tre còng xuống trước tuổi già
Tua tủa bật măng bên hố bom hố đạn
Với quê hương tôi thấy mình chưa trọn
Dẫu đến giờ vẫn một chiếc ba lô.
Nhận thuyền mới
Đáng lẽ chúng tôi phải hát phải hò
Phải reo mừng khi được nhận thêm thuyền mới
Nhưng chúng tôi chỉ thực hành nghi lễ
Đến nụ cười cũng ít phần rạng rỡ
Chỉ nhìn nhau nước mắt gợi chia lìa
Tháng nào cũng thương binh, liệt sĩ
Tháng nào cũng chuyển giao thuyền mới mấy lần
Yên Định năm mươi chiếc; Thọ Xuân bảy mươi chiếc; Quảng Xương tám mươi chiếc; Tĩnh Gia chín mươi chiếc; Hoằng Hóa
một trăm chiếc…
Hôm ấy
Năm mươi thuyền chúng tôi đang ém nơi cầu Sắt, hàng hóa chất đầy khoang, máy bay đột ngột đến dội bom, hai lăm thuyền mỗi nơi một mảnh! Mùi máu, mùi hàng bốc lên nồng nặc, mười ngày sau mới thông dòng chảy
Hôm ấy
Mấy trăm thuyền ém sông sau núi Ngẳng, mười bảy quả bom thả
trúng đội hình, hơn trăm người chết! Chỉ hai người sống sót!
Hôm ấy
Ba bốn C vừa tới cầu Lau, chưa kịp cắm sào, mấy trăm thuyền mắc cạn kênh Than, chưa kịp đưa hàng vào nơi cất giấu, bom đạn
Mĩ trút như vãi trấu, đội thuyền C206 còn lại mấy người!
Hôm ấy
Mấy trăm thuyền qua khe Nước Lạnh, mấy trăm thuyền qua Lạch Bạng, Lạch Cờn, mấy trăm thuyền trên sông Núi Xước, sông đặc quánh máu và xác thuyền không chảy được!
Hôm ấy
Bốn trăm chiếc thuyền Thanh Hóa, hai trăm thuyền nan, hai trăm
thuyền gỗ, đang trên kênh Nhà Lê, máy bay Mĩ như đàn dơi ập tới
Từ hướng biển lao lên
Từ hướng bắc lao xuống
Từ hướng nam ập vào
Từ Trường Sơn bổ tới
Bom Mĩ giội như mưa suốt hai ngày ròng rã
Hai trăm năm ba thuyền hàng chất đống lên nhau
Năm trăm tấn lương thực nhào trong bùn đất
Kênh Nhà Lê đen kịt!
Nhưng lúc nào đoàn thuyền nan Thanh Hóa cũng mấy nghìn chiếc
nối nhau
Từ Bắc vào Nam đỏ rực một màu cờ
Mỗi lần nhận thêm thuyền mới
Chúng tôi nhận thêm bao nhiêu máu xương đồng đội
Nên chúng tôi lặng im
Cho vang lên tiếng hát một con đường.
VNQD