. BẢO NINH
Hà Nội, khi tôi đang tuổi học trò, tuy đã hoàn toàn đời sống mới xã hội chủ nghĩa nhưng hình hài thời Pháp thuộc hầu như còn cả đấy. Cửa hiệu, hãng buôn, cao lâu, tửu quán, khách sạn, toà báo, nhà in… tất cả đã dẹp tiệm hoặc mậu dịch hoá, nhưng cái mác của những “sở hữu tư sản” đó thì vẫn thấy rõ, do hồi trước 1954 người ta hay đắp nổi tên cùng với năm ra đời của hãng lên cổng hoặc lên mặt tiền tầng trên toà nhà. Cả tư gia cũng vậy, cũng có năm sinh của ngôi nhà trên cổng. Thấy nhiều nhất là các biệt thự, hãng buôn ra đời từ 1930 tới 1939, thời mười năm trước Thế chiến 2, kinh tế phát đạt. Thứ nữa là các năm: 1949, 1950, 1951, tức là khoảng giữa thời tạm chiếm (1947-1954).
Minh họa: Công Quốc Hà
Những ngôi nhà của thập niên 1920 không nhiều, trước đó nữa lại càng hiếm. Nhưng, rất lạ, mặc dù được xây dựng tại những nơi rất xa khu phố Tây, và rất sớm, 1919, 1915, 1910, 1905, thậm chí 1900, cả trước khi có cầu Long Biên, mà hầu hết đã là nhà gạch hai tầng, khác hẳn kiểu nhà truyền thống của người Việt. Ngôi nhà có con số 1885 đắp nổi trên cổng, toạ lạc đầu phố Nguyễn Thiếp (năm 1966 nhà này bị bom Mĩ đánh sập), theo nhớ lại của nhà văn Hà Ân, thì đấy là ngôi nhà kiểu Tây đầu tiên của người Hà Nội. Mà năm 1885 tức là chỉ 3 năm sau ngày quân Pháp hạ Hà thành lần thứ hai (1882). Quá trình tiếp thu đời sống Tây phương đã khởi sự thật là sớm sủa. Duyên do là bởi người Việt mình, một mặt có tinh thần dân tộc rất cao, luôn quyết liệt chống quân xâm lược nhưng mặt khác lại không mắc tật bài ngoại. Tuy thực dân Pháp là kẻ thù xâm lược thật đấy, nhưng nước Pháp có gì hay thì người mình vẫn chuộng và vẫn xài. Nhà cửa, xe cộ, vật dụng, đường sá, cầu cống, đèn điện, nước máy… nói chung là các thứ tiện nghi của đời sống đô thị tân thời chẳng phải hầu hết gốc gác từ Tây đó sao. Rồi cả những chữ cái vẫn viết hàng ngày. Rồi trang phục, đầu tóc. Đủ thứ.
Trước cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 tôi sống ở nhà số 21 phố Hàng Cân, vốn là một cửa hiệu thực phẩm của người Hoa. Hiệu buôn cha truyền con nối từ khai trương năm 1878 cho tới “đánh tư sản” 1959 mới đóng cửa. Hậu duệ cuối cùng của chủ hiệu là bà cụ Lìm. Bà cụ sống độc thân và vẫn ngụ ở 21 Hàng Cân cho tới năm 1978. Bà còn giữ làm kỉ vật được khá nhiều sổ sách có từ thuở ban đầu của cửa hiệu. Đã ố vàng và toàn chữ Nho, nhưng bà đọc được, bà dịch cho tôi nghe. Năm cửa hiệu khai trương là Mậu Dần thời vua Tự Đức. Hàng họ thì: bột mì, rượu nho, rượu ngải, dầu ô liu, pho mai, thuốc lá sợi, thuốc lá nhai, đường kính, và cà phê. Toàn đồ Tây! Năm Mậu Dần, 1878, bốn năm sau Hòa ước Giáp Tuất 1874, ngoại trừ nhượng địa Đồn Thủy, Hà Nội vẫn của triều đình Huế. Bởi vậy các món hàng của cửa hiệu Hàng Cân (thời đó gọi là Hàng Sơn) hẳn là được bán chủ yếu cho người Việt, chứ Tây chỉ mới là một phái bộ hơn trăm người, lại bị cô lập trong nhượng địa. Có nghĩa rằng hồi đó, những năm nửa cuối thập niên 70 thế kỉ XIX, mặc dù đang trong tình trạng nửa chiến tranh với Pháp, dân Hà Nội vẫn có không ít người xài đồ Pháp. Đối địch thì đối địch, vẫn có giao thương. Triều đình bế quan tỏa cảng, dân vẫn có cách buôn bán qua lại. Chiến tranh hay hòa bình, người Hà Nội vẫn gắng sống sao cho dễ chịu nhất có thể. Vẫn tình tang, một trà, một rượu…
Riêng về cà phê, thì Café de Beira phố Hàng Khảm khai trương năm 1884, hai năm sau ngày Hà thành thất thủ, được coi là quán cà phê đầu tiên của Hà Nội, nhiều người khẳng định vậy, cả viết lên báo và cả viết trong sách. Song điều đó hình như chỉ đúng có một nửa thôi. Café de Beira không thực sự ở Hàng Khảm (nay là dọc dài Tràng Tiền - Hàng Khay - Tràng Thi) mà nằm chếch ra, tại chỗ bây giờ là ngã tư Hai Bà Trưng - Nguyễn Khắc Cần. Cho tới quãng những năm đầu thập niên 1960 vẫn nhiều người lớn tuổi gọi chỗ đó, khu nhà tập thể của Bộ Lương thực, số 10 Hai Bà Trưng, là nhà Bây ra. Vả lại, Café de Beira là quán của Tây, lại là Tây nhà binh đóng ở trại Đồn Thủy nên người bản xứ chắc chắn không lui tới, do vậy không thể được xem là quán cà phê đầu tiên của người Hà Nội. Vậy thì quán nào năm nào? Dò hỏi các bậc tiền bối thông tỏ muôn sự Hà thành như nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, nhà văn Hà Ân, nhà văn Tô Hoài, sử gia Trần Quốc Vượng, mà các cụ không biết cụ thể chính xác, nên tôi hậu sinh lại càng không thể biết. Chỉ có thể chắc chừng là đã có từ lâu lắm rồi, chí ít là từ đầu thế XX. Như là cái quán Café de Paris ngõ Cấm Chỉ.
Bây giờ thì đã mất hoàn toàn dấu tích nhưng vào năm 1969 tôi vẫn thấy ở cổng một ngôi nhà chỗ góc ngã ba Cấm Chỉ - Kỳ Đồng dòng chữ Café de Paris và con số 1906. Số và chữ khá to, được đắp nổi, nhưng đã phủ rêu và ẩn dưới mái tôn nên được cha chỉ cho tôi mới thấy. Có thể không phải là quán đầu tiên song Café de Paris của ngõ Cấm Chỉ vẫn đáng được coi là quán cà phê Hà Nội lâu đời hạng nhất nhì. Bởi cho tới 1969, mặc dù phải chui lủi, vô danh, mất tên, quán đã 63 năm tuổi và vẫn đang ngoi ngóp tồn tại.
Phải là cà phê chui cà phê lủi vì hồi đó cà phê là thứ đồ uống quốc cấm. Hồi đó chỉ thứ gì mậu dịch phân phối mới là đồ ăn đồ uống chính danh, còn của tư nhân tư hữu bán ra thì ít nhiều đều là sự ăn uống bất chính. Có lúc bị cấm ráo riết, có lúc bị cấm vừa chừng, có lúc lơi lỏng, nhưng dù gì, quán cà phê vẫn cần náu danh ẩn mình thì mới tồn tại nổi. Cái thời ấy nó thế, may thay cà phê Hà Nội chỉ gặp hạn ở có cái thời đó thôi.
Buổi chiều đó, mùa thu 1969, ngay trước ngày nhập ngũ, tôi lần đầu tiên vào quán cà phê ấy. Tôi đi cùng cha. Cấm Chỉ hồi ấy ngõ nhỏ, đìu hiu, nhà cửa xập xệ; chỉ mỗi cái “Café de Paris” là hai tầng, nhưng cũng tiều tụy, rêu mốc, tróc lở. Ở cổng bày cái kệ bán dưa cà. Bên trong, tầng trệt, thì là quán chè đậu đen, không hẳn quán chui nhưng cũng chẳng công khai. Cha tôi chào bà cụ bán dưa cà, bà cụ nhìn thấy rõ là khách quen, mới đẩy hé cánh cửa ra mời vào. Lẳng lặng đi ngang tầng trệt, vòng ra sân sau, trèo cầu thang lên áp mái. Quán cà phê chui ẩn trên đó. Một khoang gác ọp ẹp. Dăm bộ bàn ghế thấp tịt. Khách khứa lặng lờ như những cái bóng. Có tiếng trò chuyện nhưng rất khẽ. Tuy nhiên bầu không khí thì nồng ấm và thơm lựng, ngòn ngọt, đầm đậm, một thứ hương vị chẳng lời nào diễn tả được. Đấy là lần đầu tiên tôi được thưởng thức cà phê một cách đúng điệu Hà thành. Không trộn một tí ti nào bột ngô bột cám, cà phê thật sự cà phê, pha phin, đậm đặc, nhỏ từng giọt, đường thật ít. Và thuốc lá. Mọi khi đừng nói bia bọt với cà phê, nước trà cha tôi cũng nghiêm khắc cấm tiệt tôi. Vậy mà bữa ấy cả thuốc lá ông cũng cho phép. Bóc một gói Tam Đảo bao bạc, ông đưa mời tôi, như mời một người bạn. Bởi vì rằng ngày mai tôi đã là anh bộ đội nên với cha tôi kể từ đây tôi là người lớn thực thụ, ông đưa tôi đến nơi “trốn đời” ấy của người Hà Nội, nhấm nháp những giọt đắng ngắt và nghiền ngẫm ngậm ngùi bao nhiêu chuyện đời chưa từng bao giờ ông nói với tôi.
Nhâm nhi tách cà phê thứ nhất rồi thứ nhì, hết điếu thuốc này nối điếu thuốc khác, cha tôi trầm tư, lúc nói lúc ngừng lặng, trở về với thời tuổi trẻ của ông ở Huế, học trường Quốc học, tham gia Cách mạng, nổ súng đánh Tây. Ông kể về ngôi nhà và khu vườn của ông bà nội tôi ở bên hồ Tịnh Tâm gần Đại Nội, mà vào cuối năm 1946 các cụ đã phải rời bỏ, tản cư chạy giặc. Cha tôi nói về nỗi đau lòng của bà tôi, nước mắt của bà hồi năm 1956 hay tin Mĩ - Diệm phá hoại Tổng tuyển cử, đất nước có thể mãi mãi bị chia cắt, bà tôi có thể mãi mãi không về lại được Huế... Những câu chuyện ấy miên man lùi về một thời xa lắc, một nơi xa lắc, mà khi đó tôi cho là chẳng liên quan tới cái sự ngày mai tôi ra trận.
Nhưng trí nhớ thật kì lạ. Ngay khi đấy, thú thực, tôi nghĩ đâu đâu, không thật sự chú tâm nghe ba tôi nói. Vậy mà về sau, dọc Trường Sơn, trong Tây Nguyên, những khi tăng võng rừng khuya tỉnh giấc nhớ Hà Nội, và cả tới tận bây giờ nữa, hễ cứ khi nửa đêm thao thức nhớ đến cha, là tôi lại nghe thấy rõ mồn một gần như từng lời của ông ngày đó, buổi chiều tối ấy, trong cái quán Café de Paris ngõ Cấm Chỉ ấy.
B.N
VNQD