Chú Bảy Giảng

Thứ Bảy, 05/10/2024 07:50

. HỒ TĨNH TÂM
 

Hẹn lần hẹn lữa mãi thấy cũng kì, cuối cùng tôi quyết định sắp xếp thời gian đi thăm chú Bảy Giảng cho biết nhà.

Tôi biết chú Bảy nhờ chuyến đi thăm Côn Đảo cách đây đã khá nhiều năm. Đó là lần tôi được cử đi theo đoàn cựu tù Côn Đảo để viết về họ. Ngay từ khi lên tàu ở Bãi Dứa, tôi đã để mắt tới chú Bảy, và cứ thắc mắc mãi rằng, sao cái ông này nhỏ xíu vậy không biết, tạng ấy làm sao mà sống nổi cảnh tù tội ở Côn Đảo quá mười ngày.

Minh họa: Doãn Hoàng Kiên

Con tàu chở chúng tôi có tên là tàu Côn Đảo 2, nó chở nguyên đoàn gần một trăm năm chục người, với khoảng gần năm chục hành khách mua vé tự do. Anh chị em trong đoàn ai cũng tỏ ra háo hức, lớp thì ra đứng dọc theo hai dãy lan can tàu, lớp thì ra đứng trước mũi tàu, lớp thì leo lên nóc tàu, ai nấy đều chuyện trò rôm rả lắm. Tôi cũng vậy, tôi theo anh phóng viên nhiếp ảnh ra đứng ở đuôi tàu ngắm hoàng hôn. Anh bạn phóng viên của tôi có vẻ đắc chí, khoe: “Nãy giờ tranh thủ chớp được hơn mười kiểu hoàng hôn trên biển. Chưa tới biển đã thấy lời rồi ông à. Chỉ sợ đem theo có hai chục cuộn phim không đủ xài”. Nói xong, anh hỏi xin tôi điếu thuốc. Sờ lên túi áo ngực tôi mới nhớ mình bỏ quên gói thuốc trong túi áo gió để trong khoang tàu. Vốn là dân thức đêm như vạc, nghe nhắc tới thuốc là tôi xốn cả người.

Trở vào khoang tàu, tôi thấy chú Bảy ngồi túm húm trên chiếc giường hai tầng. Dù đã quấn quanh người tấm chăn chiên, tôi vẫn cứ thấy chú nhỏ thó thế nào. Nhất là cái đầu của chú thò ra ngoài đống chăn, coi nhỏ như đầu chim thò ra từ trong tổ của nó.

“Chú Bảy không ra ngoài ngắm hoàng hôn à?”

Tôi hỏi nhưng hình như chú Bảy không nghe. Tôi hỏi lại lần nữa. Hình như chú vẫn không nghe. Hỏi tới lần thứ ba chú mơi giật mình ngoảnh sang nhìn tôi ngơ ngác. Chừng nghe thủng câu hỏi của tôi, chú lắc đầu nói thủng thẳng:

“Qua muốn ra ngoài lắm, nhưng sợ say sóng. Sợ từ hồi ra Côn Đảo lần đầu tới giờ. Lần đó qua ói ra mật xanh mật vàng. Lên bờ còn say lảo đảo, thấy đất cứ chung chiêng chúng chiếng dưới chân. Tụi nó đá bên trái mà mình té qua bên phải. Lăn cù dưới đất thấy đất vẫn chung chiêng.”

Tôi chìa gói thuốc mời chú một điếu, chú cười lắc đầu từ chối. “Tụi nó giúp qua kiêng thuốc hăm mấy năm nay. Hai lá phổi bấy bá cả, giờ dồn lại, chắc chưa đầy một lá”.

Tò mò, tôi muốn hỏi thêm nữa, nhưng cơn thèm thuốc cùng cảnh hoàng hôn vàng tứa mật rạng ra từ đường chân trời đã cuốn tôi đi. Với nhủ lòng, thời gian chuyến đi còn dài, cơ hội cho mình hỏi chuyện chú Bảy còn nhiều không cần phải vội. Lúc đến cửa khoang tàu nhìn lại, chú Bảy đã trùm chăn kín đầu, chỉ hở đôi mắt nhìn xa xăm về phía biển cả mênh mông…

*

*         *

Con đường vào nhà chú Bảy Giảng quả là trời thần đất lở. Đường cặp theo mé sông, không ra đường đá cũng không ra đường đất; cứ một khúc gạch đá lổn nhổn lại một khúc đất sình tèm nhẹp; đã vậy, lâu lâu lại bị mương rạch từ trong vườn xỉa ra sông cắt ngang đứt khúc như người ta khứa cá. Chỗ có mương rạch băng ngang, dân tình tốt lắm mới vắt ngang qua bằng miếng ván, còn không thì chỉ vắt ngang bằng cây tre, cây gòn. Chiều rộng con đường ước chừng thước rưỡi, vậy mà nhiều đoạn bị sóng ngoạm lở chỉ còn lại phân nửa. May cho tôi lúc vào là nước lũ còn chưa ngập, nó chỉ mới lé đé mặt đường.

Lội mãi, hơn ba giờ chiều tôi vào tới nhà chú Bảy. Ngôi nhà tường xây gạch, mái tôn, nằm lọt giữa một vườn xoài mát rượi. Đón tôi là hai con chó mực to cỡ con heo nhỡ. Chúng xông ra gầm gừ tới mức tôi muốn són ra quần. Phước đức cho tôi là chúng không nhảy xổ vào mà chỉ dừng lại cách tôi vài bước chân. Tôi đứng như trời trồng, đợi mãi mới thấy một bà lão tóc bạc từ lút trong vườn lẹp xẹp bước ra.

“Bà ạ! Đây phải nhà chú Bảy Giảng không?”

Bà lão phốp pháp, quệt quệt hai bàn tay ướt rượt vào ống quần, nói với ra:

“Ừa! Nhà Bảy Giảng đây. Chú với ổng quen sao mà tới tìm cực khổ vậy?”

Hai con chó thấy bà lão đứng nói chuyện với tôi, liền trờ tới giúi mõm hít hít bàn chân, hít hít trên đùi khiến tôi sợ cứng cả người. Chừng sau đó nghe hiểu bà lão mời tôi vào nhà chúng mới buông ra không hít hà nữa; mỗi con lủi vào nằm khoanh một góc trước hiên, lim dim mắt nhìn như dò hỏi.

Vừa chăm bình trà rót nước mời tôi, bà lão vừa nói:

“Ổng đi họp khuyến nông, sắp về tới. Tui là vợ ổng, chú gọi thím, đừng gọi bà coi kì lắm.”

Mắc dịch cái thằng tôi. Mới giáo đầu đã trớt quớt. Hôm ngoài đảo, đứng trên cầu Ma Thiên Lãnh, tôi nhớ chú Bảy đã nói, gia đình chú hiện giờ chỉ còn hai vợ chồng già sống với nhau. Té ra bà thím ú nu, tóc bạc trắng này là vợ chú đây. Hèn chi chú đã kể với tôi, nhiều người mới tới chơi hay lầm thím Bảy là má của chú. Giờ để ý kĩ mới thấy thím Bảy bề ngoài coi lớn tuổi nhưng tánh khí và cách đi đứng coi còn trẻ trung, lanh lẹ lắm. Thím nói:

“Ổng hồi nhỏ nhát hít hà. Đi đâu cũng hay bị trẻ lối xóm ăn hiếp. Tui với ổng học cùng lớp, tui đứng ra binh ổng riết mà dính luôn với nhau tới giờ.”

Tôi nghe chuyện, để ý thấy bên ngoài nước lũ đã lên ngập sân. Nghe có tiếng khua nước lõm bõm, tôi ngoái nhìn theo hướng hai con chó sủa mừng rối rít, thấy một người đàn ông vận quần xà lỏn bước vào. Tới giữa sân, bất chợt ông cúi xuống, vừa chạy lom khom rượt đuổi, vừa chụp búa xua làm nước văng tung toé. Hai con chó cũng chạy theo, nhảy lõm chõm. Được một lúc, tôi thấy người đàn ông vung tay quơ quơ một con rắn to như cổ tay người lớn, xanh vàng anh ánh. Ông toét miệng cười, gọi với vào trong:

“Bắc nước chị Bảy ơi! Mần lông con ri voi nấu cháo nè!”

Thím Bảy cũng cười toét.

“Ừa, sẵn có khách của ổng, chiều nay cho chú nhậu quắt luôn.”

Người đàn ông đó là em ruột chú Bảy, tên là Tám Tích. Chú Tám Tích tướng tá gân guốc, coi ngược hẳn ông anh. Thấy tôi, ông cười hì hì, chìa bàn tay phải chỉ còn ba ngón ra bắt tay. Với ba ngón ông bóp mạnh làm tay tôi đủ năm ngón đau điếng. Xong chú ngồi xuống ghế, lôi bịch thuốc rê trảng giắt cạp quần ra, vấn một điếu, châm lửa hút phì phà, nói với tôi:

“Ổng đẹt nhứt nhà, nhưng là thứ đẹt trời đánh không chết. Hồi đó tía tui đang nằm hầm bí mật, má tui lỡ mang bầu, sợ lộ, bả mua kí ninh uống mỗi ngày, tính trục ông anh tôi ra. Nhưng ổng lì trời đất, trục hoài không được, bởi vậy khi ra đời ổng vàng khè, nhỏ thó như con chuột. Sau này cũng vì ổng má tui bị Tây đồn triệu lên triệu xuống hạch hỏi, đánh bầm dập không biết bao lần…”

Nghe vậy, tôi lan man hỏi thêm thế nào là trời đánh không chết nữa. Chú Tám Tích hào hứng kể với tôi. Hồi năm 63, tay cảnh sát xã tên Chà dẫn lính đột vô nhà, bắt quả tang chú Bảy với mớ truyền đơn kêu gọi đòi quyền dân sinh dân chủ. Không cần tra hỏi ất giáp đầu đuôi xuôi ngược, Chà sai trói thúc ké chú Bảy, treo ngược trên cây còng sát mí sông, dùng dùi cui nện chú Bảy tới ói máu. Nện mỏi tay, hắn sai đem chú Bảy trấn nước. Trấn đã đời dưới sông mới lôi lên, cho lính dậm chân trên bụng cho ọc nước ra.

Minh họa: Doãn Hoàng Kiên

“Ổng lì lắm. Bữa đó ổng lừa tụi nó, dẫn chúng ra đồng kiếm khẩu súng ngắn. Ổng bày trò dẫn tụi nó lòng vòng hết ruộng sâu ruộng cạn tới tận lúc trời nhập nhoạng tối. Biết bị lừa, tụi nó hè nhau bay lên song phi, đá ổng một trận ra trò. Ổng lăn cù cù dưới đất, mồm miệng nhoe nhoét máu. Vậy mà chưa xong, trở vô làng, tại cái sân này đây, thằng Chà sai lính chế axít trong bình ắc quy ra cái ca mủ, pha thêm chút nước sông, dằn ngửa ổng ra đổ vô mồm. Sau này ổng đi cầu cả tháng vẫn còn ra máu bờn bợt.”

Nghe chú Tám Tích kể tôi mới vỡ lẽ, hóa ra mình mới chỉ thấy hình tướng chú Bảy ở vẻ bề ngoài nhỏ bé, yếu ớt thôi. Còn tận sâu bên trong nữa thì quả thật vẫn chưa biết gì. Mà những điều kể trên đây mới là bề nổi cái còn găm lại của trí nhớ thôi, còn cái bề chìm bao điều trí nhớ đã quên thì sao, chắc khó có giấy bút nào ghi lại cho hết được…

Ngồi nhâm nhi với chú Tám Tích đợi chú Bảy về, ngó mung ra con sông ồn ào ghe tàu tới lui tấp nập, tôi thốt nhớ chuyện chú Bảy kể về lần nhảy từ trên tàu sắt xuống sông lớn trong lần địch dẫn độ từ xã lên đề lao tỉnh. Khi tàu chạy ngang qua vàm sông có xoáy lớn, nghĩ bụng đằng nào cũng chết, thà chết chìm còn hơn chết bởi đòn roi bầm dập mỗi ngày, chú Bảy nảy ra ý định nhảy tàu. Một sống một chết, quyết không để chúng cho đi “tàu bay”, “tàu lặn”, cho uống axit tới ói máu. Vậy là chú bày đặt xin được đi tè. Thấy chú bị trói hai cổ tay, thằng lính ngồi canh trỏ tay chỉ chú tới đuôi tàu. Tới nơi, chú đạp mạnh hai giò, uồm luôn xuống nước. Tụi lính trên tàu nháo nhào chạy tới. Sóng nước do chân vịt tạo ra cuồn cuộn. Chú Bảy mất tăm mất tích. Tụi lính nói với nhau, nó bị trói tay trước bụng, chết chìm là chắc, thây kệ nó. Không ngờ chú Bảy bị cuốn vào xoáy nước. Xoáy nước hút chú vào miệng, nhận sâu xuống, sau đó thổi tống lên một chỗ gần bờ. Chú Bảy nhờ bình tĩnh chòi đạp bơi đứng mà nổi lên được. Một chiếc ghe chài ngang qua nhìn thấy, hai vợ chồng người hạ bạc vớt chú lên, cởi trói đưa vào bờ. Nhờ vậy mà chú thoát chết trong gang tấc.

Lại một lần khác, chú Bảy đem tài liệu tuyên truyền từ huyện về xã mở lớp, ngang qua con rạch giữa đồng đưng, bị tụi biệt kích phát hiện bắn gãy giò. Người cán bộ cùng đi không bị thương nên trốn được, còn chú Bảy bị chúng nhào tới bắt tại chỗ. Nhìn thấy cặp tài liệu chưa kịp thủ tiêu, cả bọn hí hửng giải ngay chú Bảy về tỉnh để lãnh thưởng. Sau khi lập hồ sơ tội phạm, chú Bảy được đưa vào nhà thương trị bệnh.

Người bác sĩ trưởng ca mổ, nhìn thấy chú Bảy nhỏ con, ốm yếu nên động lòng thương. Sau khi mổ xong, ông ta gởi gắm chú Bảy cho bác sĩ phụ trách điều dưỡng, nói cần phải đối xử theo đúng luật quốc tế về tù binh. Nhờ vậy, chú Bảy được săn sóc thuốc men tương đối chu đáo. Tuy nhiên, đề phòng đàng mình móc nối tổ chức cho chú Bảy chạy trốn, hàng ngày chúng vẫn cử một tên lính ôm súng ngồi canh chừng. Nhìn thấy bệnh nhân bị lính canh ráo riết, nhiều thân nhân đi nuôi bệnh đoán biết chú Bảy là Việt cộng, họ xin phép vào thăm, đem biếu rất nhiều đường sữa và tiền bạc.

Thời gian nằm điều trị trong viện, khi được thả ra sân tập đi, chú Bảy lân la kết thân được với ông quản nhà xác. Rình lúc thằng lính canh chừng đi mua thuốc hút, chú Bảy lủi luôn vô nhà xác, trốn ở trong đó cả tháng trời. Bọn lính nháo nhào bủa vây tìm kiếm khắp nơi, nhưng chúng không thể ngờ chú Bảy lại đang trốn ngay trước mũi chúng.

Ông quản nhà xác có cảm tình với chú Bảy nên săn sóc chú rất kĩ. Mỗi lần có người đến nhận xác, ông liền dùng vải liệm, cuộn chú Bảy lại, để nằm ở góc phòng. Nhờ vậy mà không một ai hay biết trong nhà xác có một người sống đang hiện hữu. Có lẽ sống với hồn ma bóng quế, âm dương hòa hợp sao đó mà chú Bảy đi lại được một cách vững vàng. Bấy giờ ông quản nhà xác mới móc nối với đàng mình, tổ chức cho chú Bảy trốn trở vô vùng vào một đêm mịt mùng mưa gió.

Trong vùng, chú Bảy nhỏ con, lại thêm hai chân còn yếu, tổ chức giao cho đi góp đảm phụ (1). Một lần chú Bảy cùng người bạn ngồi ghe gắn máy cole 12 đi gom lúa về, chẳng may ghe chết máy đúng lúc nước đang ròng xiết. Con nước cuồn cuộn cuốn phăng chiếc ghe ra sông lớn, đụng nhằm tàu tuần tiễu của tụi giang đoàn 17. Chúng trói cả hai người đem về tỉnh lị.

Ở đề lao tỉnh, chú Bảy cùng mấy anh bị nhốt chung phòng bí mật tổ chức giết thằng Bính giám thị, vì ghét thằng này đối xử với tù rất hà khắc. Chẳng may chuyện bại lộ, chú Bảy bị kêu án tù chung thân, đày ra Côn Đảo.

Chuyện ở Côn Đảo kể dài dài cũng không hết. Nhưng có một chuyện khá đặc biệt liên quan đến cái số trời đánh không chết của chú.

Số là chú Bảy vốn nhỏ con như con nít mới lớn, nên tụi giám thị tỏ ra rất coi thường, việc giám sát chú chúng thường lơ là hơn việc đề phòng người khác. Nhờ vậy chú với một bạn tù, lừa lúc lên rừng kiếm củi, đã leo tuốt lên núi Cấm. Hai người chặt mỗi người một cây chuối, bơi thoát ra Hòn Cau. Trốn chui trốn nhủi được năm ngày, họ móc được với chiếc ghe đánh cá, xin nhờ chở vô đất liền. Ghe vô gần tới cửa Đại An thì bị tàu Mĩ chặn lại xét giấy tờ. Chú Bảy với người bạn tù chui xuống nằm trốn dưới đống lưới. Không biết tại sao tụi Mĩ lại cắc cớ buộc giằng luôn chiếc ghe cá vô tàu của chúng, kéo tuốt về cảng Cần Thơ, giam lại ở đó hơn một ngày trời mới thả. Chừng người chủ ghe lôi được hai người ra, thì người bạn tù cùng trốn đã chết ngạt do bị đuối sức. Còn chú Bảy, bệnh ngắc ngoải gần cả tháng, mấy lần tưởng đã đi đứt, nhưng cuối cùng vẫn sống nhăn.

Theo sự giới thiệu của ông chủ ghe tốt bụng, chú Bảy lận lưng tấm căn cước giả, tìm tới nhà ông Năm Ích, xin được một chân ủ cá, đun lò. Chú làm công nhân hãng nước mắm được hơn nửa năm thì tìm cách thoát được vô vùng trở lại.

Lần này chú dứt khoát xin bằng được vô quân chủ lực. Tiểu đoàn trưởng thấy chú tướng tá nhỏ con nên giao ngay cho giữ chức trợ lí hậu cần.

Một lần đi công tác từ tiểu đoàn lên E bộ, chú bị dính pháo chụp giữa đồng nước nổi. Khi tỉnh dậy thì chiếc xuồng ba lá đã tanh bành cùng với anh trinh sát bị vỡ toác hộp sọ. Gót chân phải của chú Bảy bị mảnh bom cắt đứt gần phân nửa gân Asin. Trồi hụp suốt gần hai ngày giữa đồng nước linh lang, gần vô tới rừng tràm thì chú bị máy bay OV10 phát hiện, gọi trực thăng chụp xuống bắt chở về căn cứ Đồng Tâm. Soát hồ sơ thấy chú là tù chính trị vượt ngục, chúng kêu án chung thân lần hai, đày chú trở lại Côn Đảo.

Rồi phòng tối, chuồng bò, chuồng cọp giam giữ chú suốt từ đó tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng…

*

*           *

Bữa đó tôi với chú Tám Tích nhâm nhi đợi chú Bảy Giảng tới gần chín giờ tối thì có anh thanh niên lội nước lõm bõm tìm tới. Anh này thấy mồi ngon thì xáp vô luôn. Chừng gần hết con rắn, anh ta mới nhe răng cười hề hề, báo rằng chú Bảy tối nay không về.

Té ra sau khi tan buổi họp khuyến nông, khuyến cáo về giống lúa thơm Jăcmin của Mĩ, chú Bảy tạt vô thăm vợ chồng Hai Chà, rồi kẹt luôn ở đó. Hai Chà bị xơ gan, bụng phình căng như trống cái, nằm quằn quại chịu trận từng cơn đau dội xé. Sẵn chiếc vỏ lãi, chú Bảy chở tốc luôn Hai Chà lên viện đa khoa của tỉnh.

Nghe nhắc tới Hai Chà, tôi tò mò hỏi anh thanh niên Hai Chà là ai. Anh thanh niên trố mắt nhìn tôi.

“Bộ anh với chú Bảy quen nhau mà không biết Hai Chà thiệt sao?! Hai Chà hồi nhỏ học chung với ổng, thường ỷ lớn con ăn hiếp ổng. Có bữa y bị thím Bảy đây nắm đầu kẹp vô háng, dùng thước quất cho muốn lủng đít quần. Bởi vậy khi làm cảnh sát y mới bắt, trói đổ axít vô mồm ổng, làm muốn bấy bộ đồ lòng. Hắn chỉ mới thượng sĩ nên không đươc tụi Mĩ rước qua bển.”

Trời đất! Tôi không ngờ lại có chuyện đó. Tánh cách chú Bảy thiệt ngộ. Hóa ra, giải phóng về làng, thấy Hai Chà không trốn ra nước ngoài, mà ở lại chịu đi học tập cải tạo, rồi trở về chí thú làm ăn nuôi vợ nuôi con, Bảy Giảng không những không thù ghét mà còn kiếm cớ tới thăm hỏi, giúp ông ta xua đi mặc cảm. Giờ Hai Chà thọ nạn, chú Bảy còn tận tâm đưa đi chữa trị.

Anh thanh niên mời tôi uống chung với anh ta thêm li rượu, rồi nói:

“Ổng dặn tui sớm mơi đem lên cho ổng mớ tiền giúp Hai Chà đóng tiền viện phí, thuốc men, vì Hai Chà con đàn, nhà nghèo rớt ra. Tui tới đây là để hỏi thím Bảy lấy tiền. Mơi anh có về tui cho quá giang.”

Tôi nghe thình lình sặc rượu, ho muốn trối chết.

Hết cơn ho, nhìn ra sông thấy con nước đã dật xuống, nhưng vẫn còn ngập con lộ trước cửa nhà.

Thím Bảy thấy tôi nhìn phóng ra sân cũng nhìn theo, rồi nói thủng thẳng:

“Nghe nói nhà nước tính trợ vốn cho xã làm lại con lộ mới lót đan, chớ con lộ cũ này hết xài nổi rồi chú ơi!”

H.T.T

--------

1. Như thuế nông nghiệp, nhưng hoàn toàn mang tính tự giác.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)