. TRƯƠNG CHÍ HÙNG
Ấn tượng với một vùng đất có thể do thắng cảnh, nhưng nợ duyên với một vùng đất hẳn phải được cắm rễ trên tình người. Để rồi, khi nhắc đến một phương trời xa xôi nào đó, lòng chỉ cố nhớ xem chốn ấy, ta có ai. Những người bạn tri âm luôn cho ta cảm giác an tâm, ấm áp khi đến vùng đất lạ. Cứ như, ở đó vẫn là quê mình, nhà mình. Với riêng tôi, mỗi lần nghe nhắc đến quần đảo Nam Du là tôi liền nghĩ về anh Lưu ngoài ấy.
Tôi đến đảo Nam Du lần đầu cách đây mười lăm năm. Khi đó, từ Rạch Giá ra Nam Du phải đi bằng tàu sắt, thời gian di chuyển khoảng mười tiếng đồng hồ. Tàu chở hàng hóa, nhu yếu phẩm từ đất liền ra cung ứng cho bà con ngoài đảo, rồi chở hải sản từ đảo vào, vận chuyển hành khách chỉ là phụ. Tôi còn nhớ, lần đầu đi biển nên say sóng, tôi nằm vật vã giữa đống thùng xốp, bao ni lông đựng rau củ. Đến khi nghe ai đó nói văng vẳng “tới rồi, tới rồi”, tôi mới dụi mắt ngồi dậy. Mấy chục hòn đảo đột ngột hiện ra trước mắt tôi, tĩnh tại giữa mênh mông mây nước như đang thiền định. Tôi diện kiến Nam Du trong cảm giác ngỡ ngàng hứng khởi.
Minh họa: Nguyễn Vân Chung
Nam Du là tên gọi một quần đảo gồm hai mươi mốt hòn đảo lớn nhỏ, nằm ở vùng biển phía Tây Nam lãnh hải nước ta, thuộc huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Lúc tôi đến, nghe nói chỉ hòn Lớn, hòn Ngang, hòn Dầu và hòn Mấu có người ở. Những hòn khác vẫn còn bỏ hoang. Ngay cả hòn Lớn cũng chỉ vài trăm hộ định cư, dĩ nhiên sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản. Tôi đi bộ dọc con đường ven biển nhỏ xíu, dài độ ba cây số từ cầu cảng ở bãi Trệt về bãi Cỏ, hai bên đường chất đầy ngư cụ. Đường đảo lúc ấy không có xe, khi cần di chuyển thì người ta đi bộ hoặc dùng tàu thuyền. Điều khiến tôi chú ý là nhà nào cất cũng day mặt ra phía biển, mở cửa trống hoác đón gió lồng lộng thổi. Cả xóm chài hầu như chỉ còn phụ nữ và trẻ em, đàn ông con trai đi biển hết rồi. Những người phụ nữ ngồi trước cửa nhà, mắt nhìn đăm đăm ra biển. Những đứa trẻ da rám đen rồng rắn chạy theo tôi, bởi hiếm khi chúng thấy người lạ đến nơi này.
Trước khi ra, tôi đã được người quen giới thiệu về anh Lưu, bảo ra đảo cứ hỏi thăm đường đến nhà anh, người dân sẽ chỉ. Tôi ghé nhà anh lúc anh còn đi câu mực ngoài khơi. Chị Huyền, vợ anh nấu cơm cho tôi ăn, bảo đợi tối anh Lưu về. Tôi quan sát căn nhà của anh chị, cũng quay mặt ra biển, có một cái kệ gỗ dùng để đồ đạc, một chiếc chiếu, một cái võng, nồi niêu xoong chảo ám khói đen trong bếp. Mấy sợi dây buộc vỏ ốc biển thành những chùm dài, chị Huyền nói dùng để giăng bắt mực tuộc. Khi thả những vỏ ốc này xuống biển, mực tuộc sẽ chui vào đó, ngư dân chỉ cần kéo vỏ ốc lên là bắt được. Khoảng 8 giờ tối anh Lưu về với một khoang tàu đầy mực. Những con mực ống bằng bắp tay, trên thân mình còn những ngấn xanh đen đang chớp nháy. Anh bắt vài con lên rửa sạch rồi để vào nồi, luộc chín, cắt ra từng khúc to như khúc bánh tét. Tôi ăn thử một khúc, thấy thịt mực ngọt không thể tả được. Đó là miếng mực ngon nhất tôi được ăn cho đến bây giờ. Rồi mâm cơm tối dọn ra, vài người “bạn biển” của anh Lưu cũng đến nhà. Chúng tôi uống rượu và nói với nhau những chuyện về biển...
Anh Lưu kể, anh quê gốc ở tận Quảng Bình, dạt đến đảo này hơn hai mươi năm trước. Hồi đó ở quê khổ quá, anh theo tàu đánh cá rày đây mai đó, rồi tấp vào đảo Nam Du. Bước lên đảo với hai bàn tay trắng, làm thuê làm mướn cho các chủ tàu vài năm, có chút vốn mới cất nhà, cưới vợ. Anh bảo đa số dân ở đây đều “bén duyên” với đảo như thế. Anh chỉ xuống nền nhà nói, đây là cái nhà sau này, chớ trước là nhà gỗ lợp tranh. Gỗ đốn trên đảo, tranh cũng trên đảo, nhân công thì có mấy anh em bạn chài giúp đỡ. Cả cái nhà cất tốn có hai mươi bảy ngàn đồng tiền đinh thôi, chú em tin không, anh Lưu hỏi. Tôi bảo tin và trong đầu bỗng liên tưởng đến cái thời khai hoang mở cõi của lưu dân Nam Bộ xưa. Trên bước đường Nam tiến, những người Đàng ngoài phải vượt qua nhiều chông gai thử thách. Đến phương Nam, họ đương đầu cùng lam sơn chướng khí, nước độc rừng thiêng, chống chọi với thổ phỉ và thú dữ để sinh tồn. Ngoài cái chất phiêu lưu lãng tử, cái tính chịu thương chịu khó, hẳn họ cũng được sự hỗ trợ đắc lực của những người đi cùng, những láng giềng nghĩa tình. Nhưng đó là chuyện “từ thuở mang gươm đi mở cõi” hàng trăm năm trước. Nào ai ngờ cách đây hơn hai mươi năm mà anh Lưu cũng phiêu bạt không kém tiền nhân. Chính cái nghĩa tình của những người đi trước, và sự hào phóng của sản vật biển khơi đã cưu mang anh cùng bao hộ gia đình khác đến bây giờ. Anh Lưu còn kể nhiều điều thú vị nữa về vùng biển mà anh chọn dừng chân. Tôi thì như đứa học trò ngoan ngoãn, chăm chú lĩnh hội những bài học vỡ lòng về biển cả. Ngỡ ngàng nhận ra người ta câu mực bằng con tôm giả sơn một lớp dạ quang chớ không dùng mồi. Biết cá chình sống ở những gành đá sâu, dữ tợn đến mức dù mắc câu rồi nhưng vẫn có thể táp bay một miếng thịt của ngư phủ như chơi. Biết được cách dân biển nương thuyền theo sóng để vượt trùng khơi. Biết được những vong hồn vất vưởng trên mặt sóng mỏi mòn muốn tựa nương vào đảo…
Say sưa, tôi chìm vào những câu chuyện huyền bí của biển khơi cùng những người lần đầu gặp mà đã rất thân quen, đến khi giật mình thức giấc thì mặt trời đã vẽ một bức tranh rực rỡ ở một góc biển xa xa. Tôi nhảy xuống tàu cho anh Lưu chở ra giữa biển, thỏa sức thu vào tầm mắt màu nước xanh như ngọc bích, những cánh rừng trên đảo bát ngát xanh, bầu trời cũng quyện vào một sắc xanh bất tận. Mọi thứ trong lành viên mãn đến mức tưởng chừng như chốn bồng lai tiên cảnh. Những nợ duyên với Nam Du đã khơi nguồn trong tôi từ buổi đầu như thế.
*
* *
Mấy năm sau, tôi trở lại Nam Du. Lúc này con đường quanh hòn Lớn đã hoàn thành, lượng khách du lịch đến đảo ngày càng đông. Nhiều công ti tàu cao tốc bắt đầu khai thác tuyến Rạch Giá - Nam Du. Dù vậy, cung vẫn không đủ cầu, những ngày cuối tuần hay lễ tết tàu đều cháy vé. Tôi đi vào dịp lễ nên không mua được vé tàu cao tốc, phải đi tàu gỗ, cũng là loại tàu chở hàng hóa nhưng nhỏ hơn tàu sắt trước kia. Tôi nhớ rõ, có khoảng một trăm người đi chung chuyến đó. Vì đây không phải tàu chuyên chở khách nên chúng tôi không được ngồi ở ngoài mà bị dồn vào ca bin gần buồng máy để chủ tàu “né” trạm kiểm soát.
Ca bin rất chật, nóng nực và tối om. Mồ hôi tôi túa ra như tắm. Tình trạng của những người bên cạnh cũng không khác gì. Tôi nghĩ, đi kiểu này nếu xảy ra bất trắc thì thật nguy hiểm. Không biết những người khác có nghĩ như tôi không, nhưng ai cũng im lặng. Có nỗi sợ len lỏi vào đầu óc chúng tôi, chập chờn. Một lúc sau, nghe bên ngoài tiếng sóng bắt đầu đập vào mạn tàu ình ình từng hồi, tôi biết đã ra khơi. Mọi người được phép rời ca bin, ra ngoài tìm chỗ nào ngồi được thì ngồi. Có điều, cả con tàu đang chất đầy hàng hóa, nên chúng tôi cũng không còn không gian để ngồi cho thoải mái.
Tôi ngồi ở mép tàu, dựa lưng vào mấy bao tải đựng nhu yếu phẩm. Ngước lên trời cao, tôi thấy trăng đang đồng hành với mình. Đó là một đêm trăng bàng bạc. Trăng rải khắp mặt biển, trăng uốn mình cùng con sóng, lao đến đập vào mũi tàu rồi vỡ ra muôn mảnh. Tôi ngủ thiếp đi giữa mênh mông trăng, mênh mông biển. Mờ sáng, tàu cập cảng. Tôi ngạc nhiên khi thấy mấy căn nhà gần cầu cảng ở bãi Trệt đều được sửa sang lại khang trang. Nhiều chỗ bán đồ lưu niệm nhiều màu sắc nhìn thật bắt mắt. Rồi quán ăn, quán giải khát, nhà nghỉ mọc lên lô nhô trên bãi. Tôi cảm thấy một Nam Du rất khác đang đợi mình.
Chị Huyền chạy xe gắn máy lên tận cầu cảng đón tôi. Chị khoe, giờ đường sá ngon lành rồi, làm du lịch hết rồi nên xe cộ nhiều, đảo tấp nập đông vui lắm. Tôi ngồi chiếc xe gắn máy cũ chạy đường vòng quanh đảo về nhà chị Huyền. Gió biển thổi vào rát mặt. Ngoài xa, từng đợt sóng vẫn chồm lên nhau lao về phía bờ. Chỉ có điều, những con tàu dường như thưa vắng dù đây đang là mùa câu mực. Chị Huyền nói dân đảo bây giờ đi biển cũng ít, đa số họ chuyển sang làm du lịch. Nhà chị cũng cất lại để cho khách du lịch thuê trọ. Chiếc tàu câu mực trước kia của anh Lưu giờ “tân trang” lại thành tàu chở khách tham quan quanh đảo. Chị hào hứng kể, từ ngày có du khách, bà con khấm khá hơn nhiều, lại không phải bôn ba đầu sóng ngọn gió ngoài biển khơi như trước đây. Tôi nghe chị kể, cũng mừng thầm trong bụng, nhưng vẫn lo và tiếc một cái gì vô cớ.
Những ngày sau đó tôi thường một mình chạy xe đi vòng quanh đảo. Cảnh vật dường như vẫn vẹn nguyên giữa biển trời mênh mông xanh ngát, nhưng lòng tôi có những mất mát vô hình. Tôi bắt gặp nhiều nhóm du khách lần đầu đặt chân lên hòn đảo này. Họ làm cho hòn đảo khởi sắc, đồng thời cũng lấy đi nhiều thứ nơi đây. Những vỏ lon bia vứt bừa xuống biển, những cuộc nhậu thâu đêm với âm thanh hát hò chát chúa át cả tiếng sóng rầm rì, những mặc cả mua bán đã làm cho hòn đảo bao bận tổn thương.
Đêm, tôi nằm gối đầu lên con sóng trập trùng mà không sao chợp mắt được. Có gì đó khiến lòng tôi trĩu nặng. Tờ mờ sáng, tôi ra bãi biển đón bình minh, lại gặp những nhóm du khách đang ngụp lặn. Vài cặp nhân tình lả lơi giỡn nước. Những đứa trẻ ở xóm chài cũng dậy thật sớm mang mấy chiếc phao tắm cho du khách thuê. Chúng đứng đó với vẻ mệt mỏi, gương mặt ngái ngủ dõi theo từng người khách đang nô đùa ngoài kia. Tôi quay trở về, bỏ mặc bình minh phía sau lưng đang cựa mình trở giấc…
*
* *
Sau lần đó, tôi không còn thiết tha với Nam Du nhiều như trước, cảm giác hòn đảo không còn thuộc về những ngư dân nữa, mà nó đã thuộc về du khách. Thậm chí, tôi có ý định sẽ chẳng trở ra, vì sợ phải bắt gặp những trái khoáy mà mỗi ngày khách lạ đang gieo rắc lên hòn đảo mình yêu quý. Nhưng trót yêu quý rồi thì làm sao chối bỏ được, bởi vậy sau bao đắn đo, tôi lại ra. Không may cho tôi, ngay đợt đi tàu cao tốc lần đầu thì lại bị áp thấp nhiệt đới. Chuyến tàu hôm đó thực sự hết sức kinh hoàng. Sóng dội từng đợt đùng đùng vào mạn tàu. Tàu chao nghiêng, rồi như ngả qua bên trái, chưa hết cơn lại bật về bên phải, chồm lên trên, rồi dội phải con sóng lớn đập giật ngược. Hành khách nghiêng ngửa bên trong, ai nấy sợ xanh mặt trước cơn thịnh nộ của đại dương. Trừ dân ở đảo, tất cả du khách trên chuyến tàu đó đều ói tới mật xanh, cả nhân viên phục vụ tàu cũng vậy. Tàu cập cảng ai nấy mừng như chết đi sống lại.
Tôi định ở chơi ba ngày nhưng mới qua được một ngày thì nghe tin đài báo áp thấp đã mạnh thành bão, cấm mọi tàu thuyền vận hành. Trưa hôm đó, gió bắt đầu rít mạnh từng cơn, biển ầm ào nổi sóng. Thấy tôi có vẻ bất an, anh Lưu liền nấu một ấm trà, rồi kêu tôi ngồi uống. Tôi cầm li trà trên tay nhưng không có tâm trạng uống bởi mãi lo chẳng biết đối phó thế nào với cơn bão dữ sắp tới. Trái với vẻ lo lắng của tôi, anh Lưu vô cùng điềm tĩnh. Anh nói bão thì bão chớ có gì đâu, dân ở đảo thì năm nào không chống chọi cả chục cơn bão, một đời người chống chọi mấy trăm cơn bão, riết quen rồi. Ánh mắt anh tỉnh rụi, nụ cười hiền khô. Tôi nghe anh nói mà cũng thấy an tâm phần nào, dù đây là lần đầu tôi phải đón cơn bão khi đang trên một hòn đảo giữa biển khơi. Khi tôi nhấp vài ngụm trà ấm nóng thì ngoài kia, từng đợt sóng đập vào ghềnh đá, bọt tung cao hàng chục mét. Anh Lưu cũng nhìn về phía ấy, gương mặt chẳng phảng phất điều gì.
Hôm sau, cường độ bão tăng lên, gió càng thổi mạnh hơn, mưa ầm ào như trút cho hết cơn thịnh nộ của tạo hóa. Vậy mà, mấy thành viên trong gia đình anh Lưu vẫn chẳng có biểu hiện lo lắng gì, dường như chuyện dông bão là một phần của đời sống người dân ở đảo. Đến trưa, anh rủ tôi đi dự đám cưới của một gia đình ngư dân gần đó. Tôi ngạc nhiên vì trong cảnh mưa gió vần vũ như thế mà người ta sao có thể an tâm nghĩ đến chuyện cưới hỏi. Anh Lưu cười, nói một câu đầy thi vị, mưa gió là chuyện của trời cao, còn chuyện tình yêu và hạnh phúc là của con người, phải duyên thì cưới, sá gì dông bão.
Đúng như lời anh, cái đám cưới ấy tuy không đông khách mời nhưng vui vô cùng. Quan khách đến dự tiệc ai cũng mặc áo mưa. Cô dâu chú rể và đại diện gia đình hai họ đứng trước cổng cưới làm bằng hai cây chuối có quấn lá dừa, gió giật mạnh một cái, cổng lật ngược, mọi người ướt sũng. Cánh thanh niên chạy đi dựng lại cổng, che chắn thêm cho mưa bớt dột vào các bàn ăn, xong rồi cứ để mình ướt, chân không mang giày dép, xắn quần lên ngồi dùng tiệc. Cô dâu chú rể thay đồ xong, vừa ra chào quan khách thì bị một đợt gió giật nữa, lại ướt. Lần này họ không thèm thay đồ, cứ để vậy đi đến các bàn tiệc mời bà con. Mỗi đợt gió mưa tạt vào đám cưới, mọi người lại cười to rồi cùng nhau nâng li uống. Tôi ngồi chung với mấy thanh niên và anh Lưu, nghe nói toàn chuyện về biển. Họ bảo chú rể là người rất thạo biển, biết rõ mấy bãi nhum quanh đảo này, nhìn con nước có thể xác định được luồng cá, có lần đi thuyền thúng mà câu được con cá bớp mấy chục kí lô. Đám cưới xong, họ sẽ cùng chú rể ra khơi một chuyến dài ngày để kiếm tiền về ăn tết. Chẳng nghe ai nói gì về cơn bão, dù nó đang hiện hữu. Có lẽ trong cuộc đời này, tôi sẽ không bao giờ được dự một đám cưới độc đáo như vậy lần nào nữa.
Bị kẹt ở đảo đến ngày thứ năm thì tôi nghe tin hôm sau tàu cao tốc đã có thể hoạt động trở lại. Chiều đó, đang thu xếp hành lí chuẩn bị sáng về đất liền thì thấy anh Lưu hớt hơ hớt hải từ phía cầu cảng chạy về. Tôi chưa kịp hỏi gì, anh đã kêu tức tốc mượn chiếc xe máy chở anh qua bãi Mến có chuyện gấp. Đợi xe nổ máy, anh Lưu mới bảo, có mấy chục chiếc tàu đánh cá, tàu câu mực vào tránh bão nhưng bị sóng đánh chìm bên bãi Mến, anh vừa nghe tin là chạy qua liền. Thật ra, khi ngư dân đậu tàu trú tránh bão, họ luôn xem xét hướng gió, để chọn bãi đậu cho khuất và an toàn. Đâu ngờ lần này, trước khi dứt cơn bão, gió lại đổi chiều và thổi một đợt rất mạnh. Các tàu đậu ở bãi Mến hứng trọn đợt sóng đó, chìm không còn chiếc nào, anh Lưu bảo thế.
Khi chúng tôi đến nơi, thấy có hơn hai trăm người dân tụ họp ở đó. Vài chiếc tàu đã được kéo lên bãi nhưng vẫn còn nhiều chiếc chìm trong nước, có chiếc bị sóng biển đánh vỡ đôi, có chiếc vỡ nát ra thành từng mảnh nhỏ. Xe vừa dừng, anh Lưu đã lật đật chạy xuống bãi, cùng bà con kéo mấy chiếc tàu lên bờ. Có vẻ như chỉ cần chậm một chút, sóng sẽ tiếp tục đánh nát những chiếc tàu chìm còn lại. Tôi cũng hì hục kéo tiếp bà con, cho đến khi tối mịt mới nghỉ. Tôi quan sát thấy có nhiều nhóm du khách bị kẹt trên đảo vì bão như tôi cũng tham gia vào việc “giải cứu” mấy chiếc tàu chìm. Đến tối, những chiếc còn khả năng sửa chữa thì hầu như chúng tôi đã kéo được lên bờ, còn những chiếc khác có lẽ đành bỏ lại. Lúc này, tôi mới có cơ hội quan sát và hỏi chuyện mấy chủ tàu gặp nạn. Họ đều là những ngư dân nghèo đến từ khắp nơi, nào là Cà Mau, U Minh, Hòn Đất, Tắc Cậu, có người tận Bà Rịa - Vũng Tàu. Dù quê quán ở đâu, thuyền bè ngư cụ cũng là cả gia tài của họ, bị đánh chìm kiểu này là gần như mất trắng. Họ ngồi chết lặng trên bờ cát, mắt nhìn đăm đăm vào con sóng, nơi bao kì vọng bị chôn vùi. Có người lén quẹt mấy giọt nước mắt lăn xuống đôi gò má vốn dĩ rắn rỏi của một đời bôn ba biển cả.
Đêm ấy, anh Lưu và dân đảo Nam Du đã ở lại với những ngư dân không may. Họ mang nồi niêu, gạo muối đến nấu ăn cho những ngư dân gặp nạn. Họ còn cất lều, đem quần áo mùng mền tới cho. Dân đảo thừa biết những ngư dân này nếu muốn trở về đất liền thì cũng mất cả tuần lễ sửa chữa tàu thuyền. Và hơn hết, lúc này họ cần sự chia sẻ, động viên. Tôi ngồi với anh Lưu cùng bốn ngư dân quê U Minh trong căn lều dựng tạm, nghe gió rít lên từng cơn ngoài kia, tiếng sóng vẫn chưa thôi ầm ào như muốn phô diễn sức mạnh của mẹ đại dương. Biển tối om, mịt mù trong tầm mắt. Thế nhưng, trong căn lều nhỏ này, chiếc đèn bão vẫn sáng một cách miệt mài. Cuộc chuyện về khuya cũng dứt, các ngư phủ kiệt sức đã ngủ từ lúc nào, chỉ còn tiếng sóng trong gió rít.
Khi tôi thức giấc thì anh Lưu và mọi người đã ra bãi biển trục vớt những gì còn sót lại. Người dân cũng đến ngày một đông hơn, có cả mấy thanh niên dự chung đám cưới với tôi hôm trước. Ngày hôm đó, tôi và bà con dốc sức giúp các ngư dân, kẻ góp công người góp của. Từng giọt mồ hôi rớt xuống, quyện vào cát và gió biển. Gương mặt của những ngư dân gặp nạn đã dần bớt đăm chiêu. Tôi tự nhủ, dù Nam Du đã có những đổi khác so với lần đầu tôi đặt chân đến, nhưng có một thứ chắc chắn không thể mất, đó là tấm lòng hào hiệp trượng nghĩa của người dân xứ đảo.
Sau mấy ngày sửa chữa tàu thuyền và ngư cụ, từng nhóm ngư dân lần lượt rời Nam Du để trở về quê. Hôm tiễn nhóm ngư dân cuối cùng quê tận Cà Mau, anh Lưu và bà con ra bãi Mến khá đông. Những người ngư dân nơi Đất Mũi xúc động nói lời cảm ơn nghĩa tình xóm đảo. Tôi với anh Lưu khiêng mấy bao gạo để lên tàu của họ. Đó là số gạo bà con trên đảo quyên góp hỗ trợ. Còn một ít tiền cho mỗi tàu, anh Lưu để trong bọc ni lông trao tận tay. Nhiều người xua tay có ý không muốn nhận nhưng rồi anh Lưu thuyết phục họ cầm, bởi đó là tấm lòng của bà con.
Sáng hôm sau tôi cũng chia tay gia đình anh Lưu để trở về đất liền. Anh gói mấy con khô mực bự chảng bảo tôi đem về ăn tết. Nghe anh nói tôi mới giật mình nhớ ra còn chẳng bao lâu nữa là hết năm. Hèn gì ở cầu cảng sáng nay người ta chất đầy vạn thọ, cúc mâm xôi, mai vàng chở từ đất liền ra. Những chậu hoa còn e ấp, rung rinh trong gió biển. Rồi đây, chúng sẽ điểm tô cho mùa xuân xứ đảo thêm hương sắc ngọt ngào…
T.C.H
VNQD