. HOÀI NAM
Đọc và viết, hiển nhiên đó là hai hoạt động khác nhau, chứ không phải một. Theo cách hiểu thông thường, đối với một người sáng tác văn chương (người viết) bất kì, đọc nằm ở quá trình “nạp”, còn viết là “xả”, là “trút” cái sự ngấm từ việc đọc của mình vào một sáng tạo ngôn từ mới mẻ. Điều đó cũng có nghĩa là, đối với người viết, đọc và viết tuy khác nhau song lại rất gần nhau. Sự đọc cần cho tất cả những ai yêu chuộng tri thức, yêu chuộng một đời sống tinh thần phong phú; riêng với người viết, đọc trở thành một điều kiện mang tính cốt tử nếu người viết thực sự muốn sống chết với nghề viết, thực sự muốn tạo lập những giá trị văn chương có thể không bị bụi thời gian che phủ; nói cách khác, phải đọc, nếu người viết muốn hiện diện với tư cách một người viết chuyên nghiệp.
Không có gì khó hiểu khi người viết chuyên nghiệp bị điều kiện hóa bởi việc đọc. Hãy thử chứng minh điều đó bằng những giả định.
Trước hết, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ chỉ có thể viết bằng chút ít tài năng trời cho (với điều kiện là anh ta có thứ tài năng ấy, tất nhiên) và bằng những kinh nghiệm đời sống hết sức hữu hạn của riêng mình, chứ không phải bằng bề dày của cái vốn liếng văn hóa về văn học. Thực tế cho thấy, cái vốn liếng văn hóa về văn học này chính là nguồn “nhiên liệu” giúp cho một người viết đi bền, đi xa trên con đường văn chương thiên lí. Không có nó, may ra người viết chỉ đạt được một vài thành công ban đầu rồi sau đó nhanh chóng lê mình trong bóng tối của sự lặp lại chính mình, cũ kĩ và nhàm chán.
Thứ hai, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ không thể biết được ở cái thế giới văn chương ngoài mình, người ta đã và đang viết như thế nào, làm được những gì, tiến đến đâu. Và do vậy, rất dễ xảy ra một bi hài kịch là người viết sẽ tự thỏa mãn với việc mở những cánh cửa đã được mở rồi, đi trên những con đường đã trở thành lối mòn, để rồi đến lúc phát hiện ra sự thực, anh ta sẽ phải sống trong tâm trạng vỡ mộng đầy chán nản.
Thứ ba, nếu không đọc (hoặc ít đọc) người viết sẽ không thể có niềm hạnh phúc đặc thù đối với một người viết là được gợi ý, được kích thích tiềm năng sáng tạo trong chính mình từ những sáng tạo của người khác. (Tôi không nói đến việc học theo, bởi với những người viết có bản lĩnh, học theo, ngay trong trường hợp tốt nhất, cũng chỉ là hành vi tự biến mình thành bản dập của những người khác. Tôi nói tới việc được gợi ý, được kích thích, và tôi nhớ đến nhà văn Nguyễn Huy Tưởng khi ông viết trong nhật kí, năm 1933: “Ta đây tuổi còn trẻ, tính còn ngây thơ, đọc sử Bình Nguyên mà lòng yêu quý non sông phơi phới, trong lúc thán phục các vị anh hùng, muốn nêu các vị vào khúc anh hùng ca để truyền về hậu thế, cho muôn nghìn đời soi vào. Than ôi! Công nghiệp không phải là dễ, mà ta vốn là kẻ ngu muội, há có thể đảm đang mà nhận cái chức làm thi sĩ của non sông như Homère của Hi Lạp, Virgile của La Mã, Camoens của Bồ Đào không?”).
Tuy vậy, cũng không hiếm người quan niệm (thường là ngấm ngầm chứ rất ít khi công khai) rằng người viết chỉ nên đọc một cách… vừa phải thôi, nếu không, chưa biết chừng lợi bất cập hại. Họ giải thích, đọc thì có ích thật đấy, nhưng nó sẽ khiến cho phần “nhân vi” nơi người sáng tạo dày lên và làm mỏng đi cái phần “tự nhiên” tươi tắn, trinh nguyên, rốt cuộc là cái được không bù đủ cái mất. Một lí do khác cũng thường được dùng như cột đỡ cho quan niệm này, là việc đọc nhiều, trong nhiều trường hợp, sẽ khiến người viết dễ bị “ngợp”, và sợ, và rồi không dám viết nữa. Vì nhìn chân trời nào cũng thấy có người bay (và có không ít người bay khổng lồ), nhìn con đường nào cũng thấy chi chít những vết chân (và có không ít những vết chân như tạc vào đá). Kiến bò miệng chén, có loay hoay mãi cũng sẽ chẳng đi đến đâu; đến nước như vậy cũng là do sự đọc mà ra!
Ảnh minh họa
Về quan niệm này, xin được bình luận một cách ngắn gọn, đó là con đẻ của một thứ chủ nghĩa mà tôi tạm gọi là “sáng tạo trong sự vô minh”. Người ta tự ru ngủ mình bằng sự khước từ việc phải nhìn vào người khác, theo cách nói của K.Marx, như nhìn vào một tấm gương để thấy bản lai diện mục của mình trong đó. Hậu quả của chủ nghĩa “sáng tạo trong sự vô minh” này, như tôi đã nói ở trên, là đến một ngày đẹp trời (hoặc xấu trời) nào đó, khi nhận ra sự thực, người viết sẽ phải sống trong một tâm trạng vỡ mộng đầy chán nản (vì anh ta biết mình là người thứ n ví người đẹp với bông hoa!).
Nói chung, với những người viết có tài năng, có bản lĩnh, việc đọc chẳng bao giờ là thừa. Càng đọc nhiều càng tốt. Bằng cái đọc, anh ta sẽ biết được trong thế giới văn chương tự cổ chí kim có biết bao tượng đài, anh ta sẽ biết được kích thước thực sự của những tượng đài ấy. Biết để kính trọng, chứ không phải biết để khiếp sợ. Biết để nuôi trong mình niềm khát khao vươn tới trở thành một tượng đài mới, chứ không phải biết để trở thành bản dập của một tượng đài đã có (điều này tôi cũng đã nói ở trên qua trường hợp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) hoặc để bị tượng đài đó làm cho nghẹt thở. Một ví dụ cho chuyện này, khi mới bước chân vào sáng tác văn chương, Victor Hugo tuyên bố rất hùng hồn: “Là Chateaubriand, hoặc không là gì cả”. Dĩ nhiên là phải đọc Chateaubriand thì Hugo mới nói như vậy. Nhưng sau rốt, như thực tế lịch sử văn chương lãng mạn Pháp cho thấy, Hugo đã vượt qua thần tượng thuở thiếu thời của mình một khoảng rất xa.
Liên quan tới câu chuyện về cái đọc đối với người sáng tác văn chương (người viết), xin được nhắc qua một chút tới những nghiên cứu gần đây của hai tác giả Việt Nam: Ngô Tự Lập (“Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích”, “Văn chương như là quá trình dụng điển” - trong sách Minh triết của giới hạn, Nxb Hội Nhà văn, 2005) và Nguyễn Thị Từ Huy (sách Alain Robbe Grillet: Sự thật và diễn giải, Nxb Hội Nhà văn & Đại Việt Books, 2009).
Ngô Tự Lập quan niệm điển tích bao gồm cả điển tích văn chương và điển tích đời sống, và sáng tác văn chương (viết) chính là quá trình mà người viết buộc phải dụng điển, hoặc cái này hoặc cái kia hoặc cả hai. Quan niệm về điển tích như vậy dường như hơi rộng (chữ “điển” tự thân nó đã mang một nghĩa hết sức cụ thể: sách vở). Nhưng ít nhất, ở khía cạnh điển tích văn chương, nó khẳng định một sự thực rằng đã là người viết thì phải đọc, như một bắt buộc. Trong văn học trung đại (Trung Quốc và Việt Nam) chúng ta thấy rất rõ điều này. Truyền thống của văn học trung đại khiến cho một người viết sẽ trở nên rất “nhẹ đồng cân” nếu anh ta không dụng điển khi viết, nói cách khác, nếu trong cái viết của anh ta không phản ánh cái đọc. Vấn đề ở đây không đơn giản chỉ là sự “khoe” kiến văn của người viết, mà còn là, và chủ yếu là việc dụng điển sẽ tạo ra một tác động thẩm mĩ đặc thù trên người đọc. Đọc một văn bản, qua những điển tích được người viết sử dụng, người đọc sẽ được sống trong một mạng lưới những dẫn chiếu rất phong phú tới những văn bản khác (lí luận hiện đại gọi đó là liên văn bản). Anh ta tự tìm lấy những sắc thái nghĩa của điển tích (cũ) trong khuôn khổ của văn bản (mới) và anh ta sẽ được hưởng khoái thú của việc hiểu và trở thành kẻ đồng sáng tạo với tác giả. Điều đó cũng lặp lại trong văn học hiện đại. “Những người không đọc văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc không thể cảm nhận hết cái hay của thứ văn được Nguyễn Huy Thiệp khai quật và phả vào một tinh thần mới trong Vàng lửa hay Kiếm sắc. Thậm chí nhiều tên nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp cũng chứa đựng những ám chỉ mà khó một dịch giả nào có thể chuyển tải trọn vẹn đến cho những người đọc không được chuẩn bị” (Ngô Tự Lập, sđd, trang 70-71). Nhưng trước khi người đọc tự trang bị cho mình để tiếp cận với văn bản, thì hiển nhiên là người viết phải đọc, phải ngấm đến cùng các giá trị của văn chương quá khứ cái đã!
Trong nghiên cứu về Alain Robbe Grillet - ông trùm của Tiểu thuyết Mới, một quái kiệt của văn chương phương Tây hiện đại - Nguyễn Thị Từ Huy không nói đến khái niệm “điển tích”, mà nói tới khái niệm “tái diễn”, “tái lặp”. Tôi muốn đơn giản hóa vấn đề bằng cách nói rằng trên một phương diện nào đó, những khái niệm này có sự giao thoa nhất định. Khi đề cập sự phá vỡ diễn giải về lịch sử tính trong tác phẩm của Robbe Grillet, Nguyễn Thị Từ Huy nêu vấn đề: “Trong việc hiểu tác phẩm, những nghiên cứu về thời đại của tác giả còn có ý nghĩa gì khi mà không gian sống của nhân vật được miêu tả cùng một cách thức như trong văn bản của một tác giả khác ở một thế kỉ trước? Bối cảnh lịch sử liệu còn có ý nghĩa gì khi mà nhân vật được miêu tả như là con người của mọi thời?” (Nguyễn Thị Từ Huy, sđd, trang 371). Và đưa ra dẫn chứng: “Chẳng hạn, bối cảnh của Tái diễn (một tác phẩm của Robbe Grillet) không được xác định bằng giai đoạn lịch sử lúc cuốn sách được viết ra - cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI - cũng không phải là giai đoạn lịch sử lúc câu chuyện diễn ra: tháng 11 năm 1949. Nhờ những dấu hiệu cụ thể, có thể nói bối cảnh của nó trên thực tế được tạo thành bởi Tái diễn của Kierkegaard, Oedipe làm vua của Sophocle, Câu cầu của Kafka, bởi các tác phẩm trước đó của Robbe Grillet, đặc biệt là Những chiếc tẩy và bộ ba tác phẩm có tính tự thuật” (sđd, trang 373). Nhà nghiên cứu lí giải điều đó: “Trong quan niệm của Robbe Grillet, đó luôn là cùng một câu chuyện, được viết bởi nhiều tác giả khác nhau, qua nhiều thời kì khác nhau, và mỗi phiên bản xuất hiện như một cái gì đó mới mẻ. Viết tạo ra một không gian chung nơi cùng tồn tại nhiều cấp độ của quá khứ: quá khứ so với hiện tại, quá khứ gần hơn so với quá khứ xa hơn, và điều đó tiếp tục cho tới khi xóa bỏ cả thời gian tính lẫn lịch sử tính” (sđd, trang 374).
Quan niệm này, như nó thể hiện qua thực tế sáng tác, cùng nhiều quan niệm gây bất ngờ khác của Alain Robbe Grillet đã góp phần mang lại hào quang cho tên tuổi của ông. Nhưng trong câu chuyện cái đọc với người viết mà chúng ta đang bàn ở đây, quan niệm này liệu có thể đi đến đâu, có giá trị hay không nếu nhà văn tiên phong của Tiểu thuyết Mới không “nạp” một khối lượng tri thức đồ sộ nhờ việc đọc? (Hỏi, cũng tức là đã trả lời. Riêng với trường hợp của Alain Robbe Grillet, phải mở ngoặc đơn để nói thêm rằng cái đọc của ông cũng rất đáng tham khảo đối với người viết nói chung, nhà văn này đọc các triết gia nhiều hơn đọc các nhà văn cổ điển. Dường như Milan Kundera và Octavio Paz cũng vậy).
Chẳng ai có thể làm được, sáng tạo được một cái gì đó mới mẻ từ một kí ức trống rỗng. Cái đọc và cái viết đối với một người viết cũng liên quan với nhau theo cách thức như vậy. (Diễn đạt theo cách của J.Kristeva, nhà kí hiệu học nổi tiếng thế giới, thì chẳng có lời nào là lời đầu tiên được nói ra; mỗi lời đều vang vọng trong nó những lời đã được nói ra từ trước đó). Hồi kí hay tự thuật của các nhà văn lớn ở Việt Nam và trên thế giới đều cho thấy họ sở hữu các thư viện lèn chặt sách và họ đã “ngốn” sách vở các loại khủng khiếp đến thế nào. Phần nào đó, họ đã trở thành “lớn” là vì thế. Liệu người ta có thể trở thành nhà văn lớn bằng những con đường nào khác chăng?
H.N
VNQD