. LÊ THIẾU NHƠN
Năm 2020 mặc dù đã xuất hiện một số game show mới như “Chị em chúng mình”, “Chọn ai đây” hoặc “Chân ái” nhưng sự dịch chuyển từ bão hòa đến thoái trào của game show là điều không khó để nhận ra. Hệ lụy ấy hoàn toàn không thể đổ lỗi hết cho đại dịch toàn cầu Covid-19 mà do chất lượng các game show ngày càng dễ dãi và nhảm nhí.
Hai thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI, người Việt đón nhận một món ăn tinh thần mới là game show. Đó cũng là giai đoạn đánh dấu sự phát triển vượt bậc của công nghệ truyền hình và sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực sản xuất các chương trình giải trí trên màn ảnh nhỏ. Có những công ti quảng cáo hoặc những công ti truyền thông được thành lập chỉ nhằm mục đích duy nhất là thực hiện game show. Game show giúp các đài truyền hình có được nguồn doanh thu lớn, mà hầu như không cần đầu tư gì về nhân lực và vật lực. Game show được dàn dựng bên ngoài đài truyền hình và được phát sóng theo một hợp đồng kinh tế khá chi tiết và cởi mở.
Đã có nhiều năm, đời sống văn hóa buộc phải thừa nhận khái niệm “quyền lực game show”. Báo chí chạy theo tin tức về game show, doanh nghiệp thương lượng quảng cáo với game show, buồn vui của công chúng cũng được quyết định bởi game show. Những game show thuần Việt như “Trúc xanh” hoặc “Đố vui để học” dần dần nhường chỗ cho game show nước ngoài. Những game show mang ý nghĩa từ thiện xã hội như “Ngôi nhà mơ ước”, “Lục lạc vàng”, “Vượt lên chính mình” hoặc “Như chưa từng có cuộc chia li” cũng thúc thủ trước sự cạnh tranh khốc liệt của những game show vui vẻ, trẻ trung. Game show tạo ra một thế hệ ngôi sao mới, điệu đà hơn mà cũng hời hợt hơn như Trấn Thành, Trường Giang, Hari Won, Ngô Kiến Huy, Tóc Tiên, Đông Nhi…
Ngoài game show “Ai là triệu phú” tương đối bền vững thì số lượng game show ra đời vội vàng và biến mất nhanh chóng chẳng thể nào thống kê cho đầy đủ. Chỉ riêng ba thương hiệu ăn khách là Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Đài truyền hình Vĩnh Long… đã nảy nở hơn 100 game show như “Ơn giời, cậu đây rồi”, “Gương mặt thân quen”, “I can do that - Tôi có thể”, “Thần tượng Bolero”, “The Face - Gương mặt thương hiệu”, “Vietnam’s Next Top Model”, “Người bí ẩn”, “Hát mãi ước mơ”, “Thách thức danh hài”, “Ca sĩ bí ẩn”, “Làm vợ phải thế”, “Dạ khúc tình yêu”, “Phiên bản hoàn hảo”, “Mặt nạ ngôi sao”, “Sao nối ngôi”, “Tiếu lâm tứ trụ”, “Ban nhạc quyền năng”, “Tuyệt đỉnh song ca”, “Kịch cùng Bolero”, “Ca sĩ giấu mặt”, “Cười xuyên Việt”, “Bạn muốn hẹn hò”, “Lựa chọn của trái tim”, “Vì yêu mà đến”, “Yêu là chọn”, “Giai điệu chung đôi”, “Cho phép được yêu”... Với sự bùng nổ về số lượng như vậy, vì sao lại bi quan về sự loay hoay thoái trào của game show? Ngoài quy luật hoa nở hoa tàn, thì một nguyên nhân quan trọng nhất để game show nước ta kém chất lượng là không biết lượng sức mình. Những nhà sản xuất cứ tranh nhau chiếm sóng rồi giở các chiêu trò chụp giật để hốt bạc nhất thời mà không quan tâm đến giá trị đích thực của game show.
Hiện nay có bao nhiêu game show do người Việt Nam nghĩ ra để phô diễn khả năng của người Việt Nam? Hầu như không có. Các game show ồn ào nhất đều mua bản quyền từ nước ngoài, bằng tâm lí “thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào”. Các nhà sản xuất không thèm chú ý rằng phương Tây có kiểu giải trí của phương Tây, kiểu giải trí mà chưa chắc phương Đông đã đồng cảm và đồng tình. Mặt khác, khi đã mua bản quyền của nước ngoài thì những nhà sản xuất trong nước lại thổi phồng biên độ thẩm mĩ lên theo kiểu đao to búa lớn như game show “Siêu trí tuệ Việt Nam”. Với bản gốc là “Super Brain” từng làm mưa làm gió nhiều năm trước ở châu Âu, game show “Siêu trí tuệ Việt Nam” được Công ti DID Tivi mua bản quyền từ Endemol Shine Group của Đức, rồi bắt tay với HTV2 - Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh để sản xuất phiên bản Việt. “Super Brain” (bộ óc siêu phàm) bùng lên thành hiện tượng toàn cầu khi được thực hiện tại Trung Quốc với tên gọi “Tối cường đại não” (bộ não xuất chúng). Với dân số hơn 1,4 tỉ người, việc những người làm chương trình “Tối cường đại não” tìm kiếm những người có khả năng ghi nhớ sự kiện hoặc con số một cách phi thường cũng không quá khó khăn. Khi “nhập khẩu” vào nước ta, “Super Brain” được lấy cái tên khá ngạo nghễ là “Siêu trí tuệ Việt Nam”. Một game show mà lạm dụng ngôn ngữ khua chiêng gióng trống của quảng cáo, như một sân chơi dành cho những nhân vật đẳng cấp siêu phàm, thì không sớm vỡ trận mới lạ.
Nếu không có Covid-19 thì game show cũng sẽ lâm vào hoàn cảnh chợ chiều bi đát. Bởi lẽ, nhiều game show mà ít gương mặt. Giám khảo quay qua quay lại cũng chỉ mấy nhân vật ấy. Thí sinh thì hỏng sân chơi nọ liền tót sang sân chơi kia. Vì vậy, tính hấp dẫn giảm dần, và tính nhăng nhố tăng lên.
Để vớt vát chút lợi nhuận từ buổi hoàng hôn của game show Việt, các nhà sản xuất chỉ còn biện pháp khá khả dĩ là lôi kéo trẻ em vào cuộc. Tất cả game show dành cho người lớn đều có thêm phiên bản dành cho trẻ em. Hiện nay, có hơn 20 game show mà đối tượng ứng thí chủ yếu là lứa tuổi cắp sách đến trường. Trước đây, những nhà sản xuất tìm mọi cách phân bua, rằng game show chỉ tạo sân chơi cho thiếu nhi trong những ngày tháng nghỉ hè. Thực tế hoàn toàn ngược lại, game show diễn ra quanh năm và có không ít đứa trẻ đã dang dở học hành vì giấc mộng ngôi sao được thêu dệt trên các game show. Ngoài những sân chơi ca hát nhảy múa như “Giọng hát Việt nhí”, “Tuyệt đỉnh song ca nhí”, “Tiếu lâm tứ trụ nhí”, “Siêu mẫu nhí”, “Ai sẽ thành sao nhí”, “Hãy nghe tôi hát nhí”, “Sao nối ngôi nhí”… còn có các talk show như “Thiếu niên nói”, “Điều con muốn nói”, “Tôi tuổi teen”… và những chương trình thực tế như “Thử thách lớn khôn”, “Đấu trường ẩm thực nhí”, “Vua đầu bếp nhí”, “Nhanh như chớp nhí”, “Nhà thiết kế tương lai nhí”… Chưa kể, những game show tưởng dành riêng cho người lớn cũng có đông đảo thiếu nhi góp mặt như “Gia đình thông thái”, “Thách thức danh hài”…
Vì sao các game show “hớn hở” với đối tượng trẻ em? Thứ nhất, sự hồn nhiên của trẻ em trước ống kính rất dễ tạo ra những điểm nhấn đáng nhớ cho từng chương trình. Thứ hai, trẻ em đến với game show thì kéo theo cả bố mẹ và người thân cùng quan tâm, khiến mỗi chương trình đều có lượt xem tăng vọt. Bởi vậy, không có gì khó hiểu khi game show tập trung tối đa vào trẻ em. Thậm chí, có game show chưa làm cho người lớn đã được thử nghiệm với trẻ em. Ví dụ, chương trình “Nhà thiết kế tương lai” có ba phiên bản dành cho người lớn, thanh thiếu niên và thiếu nhi, nhưng đơn vị sản xuất đã không chút đắn đo để khởi động “Nhà thiết kế tương lai nhí” trước tiên. Và dĩ nhiên, những nhà đầu tư tin tưởng thành công của “Nhà thiết kế tương lai nhí” sẽ kích hoạt hai phiên bản còn lại. Xô đẩy trẻ em vào showbiz, rõ ràng là một toan tính của người lớn. Trẻ em vô tư, thấy đông vui thì hào hứng. Các em làm sao biết được những hệ lụy không lường phía sau ánh đèn sân khấu.
Tuy có hàng trăm game show, nhưng tựu trung có bốn dạng thức chính. Game show về ca nhạc, game show về tấu hài, game show về thời trang và game show về se duyên. Cả bốn loại game show trên trong thời gian gần đây đều tụt giảm thê thảm về lượng người xem. Bằng chứng rõ nhất là giá quảng cáo phải hạ xuống rất thấp. Ví dụ, game show “Gương mặt thân quen” liên tục điều chỉnh giá quảng cáo từ 370 triệu đồng/ 30 giây xuống còn 250 triệu đồng/ 30 giây và lùi dần qua mức 200 triệu đồng/ 30 giây.
Không giữ chân được bằng sự hay ho thì các game show lại cố níu giữ công chúng bằng sự nhảm nhí. Phát ngôn gây cười của giám khảo hoặc hành vi lố lăng của thí sinh không còn hiệu quả nữa. Kĩ nghệ mới được triển khai chính là bới móc đời tư để bán rẻ một cách công khai. Chương trình “Sau ánh hào quang” từng tạo cơ hội cho diễn viên Lê Giang bêu riếu chồng cũ là danh hài Duy Phương. Còn chương trình “Hành lí tình yêu” thì khuyến khích diễn viên Michiyo Phạm Ngà nỉ non về sự non kém tình dục của các quý ông.
Game show là một món giải trí đã nhàm chán và nguội lạnh. Đời sống văn hóa đang cần sự thay thế thực đơn tinh thần bổ ích hơn. Danh hài Tấn Beo rất có lí khi cho rằng: “Tôi nghĩ, khi game show đi xuống, nghệ sĩ có thời gian nhìn lại chính mình để khi trở lại, mang theo sự tích cực cho khán giả”.
L.T.N
VNQD