. NGUYỄN THANH TÚ
1. Văn hóa và đặc thù sáng tạo của người nghệ sĩ - những quan niệm mới
Triết học liên văn hóa (The Intercultural Philosophy) - hướng đi tất yếu của nhân loại trong thời toàn cầu hóa đang được hưởng ứng rộng rãi, hiểu một cách khái quát nhất là “cầu đồng tồn dị” tức đi tìm những nét tương đồng trên nền tảng những khác biệt văn hóa. Ngoài sự nhận thức đời sống từ điểm nhìn dân tộc, đa chiều hơn, “liên văn hóa” còn hướng đến những ý nghĩa giá trị phổ quát, nhân loại, tức mẫu số chung (hay là hằng số) của văn hóa toàn cầu. Về văn hóa, khoa nhân học văn hóa - một ngành học mới, quan niệm văn hóa có hai tầng, bề nổi, cái thấy được và bề chìm (tức chiều sâu) không thấy được. Bề nổi là những hiện vật, di sản, truyền thống lịch sử… ai cũng thấy. Quan trọng hơn, cái làm nên sức mạnh “mềm” văn hóa - tức sức mạnh tinh thần của cộng đồng, là ở bề sâu, mà cho đến nay chưa nhà nghiên cứu nào khái quát được trong các khái niệm. Vẫn gọi chung là “vô thức cộng đồng” chưa rõ ràng về ngoại diên và nội hàm khái niệm. Người Mĩ thành thực thú nhận họ thua Việt Nam là do chưa hiểu văn hóa Việt Nam tức là chưa hiểu cái phần chìm này. Thực ra không phải chỉ người Mĩ mà hầu hết đều chưa hiểu. Có người đi tìm ở phía tâm linh, như cụ Nguyễn Trãi viết trong Cáo bình Ngô: “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”. Có người tìm trong phong thủy, hình sông thế núi…
Với đối tượng văn nghệ sĩ, “liên văn hóa” quan niệm, với tư cách là những chủ thể sáng tạo nên họ là thứ “tài sản văn hóa đặc biệt” bởi chính họ là người trực tiếp sáng tạo ra những tác phẩm/ sản phẩm văn hóa - những yếu tố cơ sở cấu thành nên một nền văn hóa. Xét đến cùng sứ mệnh cao cả nhất của các nhà văn hóa là kiến tạo những nhân cách văn hóa, tức con người. Văn hóa nào con người nấy. Thế nên vai trò của văn nghệ sĩ như là những kiến trúc sư “thiết kế” mô hình con người của tương lai.
Về đặc trưng sáng tạo thì văn học nghệ thuật là lĩnh vực tinh thần đặc thù gắn liền với cái tôi chủ thể, sáng tạo bằng cái tôi cá nhân. Cái tôi phải hằn rõ mới có thể làm nên cái cá biệt, cái riêng, vốn là những tiền đề cơ bản để tạo ra cái bản sắc. Một tác phẩm nghệ thuật nếu không có bản sắc chỉ là con số không, thiếu sức sống, nhợt nhạt, ít giá trị. Một nền văn hóa lớn cố nhiên vừa là sự tổng cộng số học vừa là sự tích hợp, tiếp biến của nhiều tác phẩm có bản sắc. Nói tổng cộng số học là nói về hình thức, cái thấy được; nói sự tích hợp, tiếp biến là nói về giá trị nội dung (nhất là giá trị văn hóa). Các tác phẩm lớn luôn có sức ảnh hưởng, chi phối, theo thời gian sẽ trở thành “mẫu gốc” nuôi dưỡng và làm giàu có mảnh đất văn hóa dân tộc. Nhìn ở góc độ nào cũng thấy sự tối cần thiết của cá tính nghệ sĩ, vì nếu thiếu không thể có tác phẩm giá trị. Những nghệ sĩ lớn trước hết là những cá tính độc đáo.
Nghệ sĩ vẫn là con người, phải sống với đời thực, phải sinh hoạt, học tập, quan hệ xã hội…nhưng thiên chức của anh ta là tạo ra “cuộc sống thứ hai”, tức tác phẩm. Anh ta phải sống, phải “đi, về” giữa hai thế giới, thế giới của đời thực và thế giới trong tưởng tượng với bao những nhân vật, hình tượng, chi tiết... Người ta hay dùng các từ “phân thân”, “hóa thân”, “nhập thân”… khi nói về quá trình sáng tạo là vì vậy. Dựa vào đặc trưng này tâm lí học nghệ thuật hiện đại cho rằng nghệ sĩ dễ sa vào tình trạng đa nhân cách, thất thường, dễ ảo tưởng, hay xúc động, cực đoan… Đây sẽ là điểm yếu khi có người thiếu bản lĩnh, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo, lừa gạt… Nếu nghệ sĩ không tỉnh táo, nhà quản lí lại nhìn nhận đơn giản, một chiều sẽ dễ đẩy vấn đề càng đi về phía tiêu cực, có hại…
Quy luật tồn tại và phát triển của văn học nghệ thuật là quy luật của cái riêng, cái đơn nhất với cơ sở gốc là cá tính sáng tạo mà sự hình thành của nó, ngoài năng khiếu chủ quan còn là sự may mắn hội tụ tinh hoa của thời đại, vùng văn hóa, cuộc sống, nghề nghiệp... Khi kết tinh thành tài năng, cá tính sáng tạo lại trở về hòa nhập với đời sống. Những trái cây tác phẩm của họ như những hạt lúa vàng mẩy luôn có xu hướng níu mình về gốc. Những Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... đều như thế. Không ngẫu nhiên, họ thường viết về cái bình thường, nhỏ bé như cây chuối, cây rau, hớp cháo...
Cá tính sáng tạo không được điều chỉnh, như con ngựa hoang hiếu chiến hiếu thắng - nếu gọi đích đáng thì đó là “chủ nghĩa cá nhân” ích kỉ, tự phụ, tự cao, nổi loạn, phá phách... Cũng là cây xanh nhưng chưa sâu rễ, nhất là chưa quang hợp nhiều ánh sáng lí tưởng, chưa trải qua bão tố, có thể kết trái nhưng chưa chuyển hóa đủ dinh dưỡng văn hóa... Muốn loại cây này có ích cho đời, chỉ có cách là trồng nó vào vùng đất mới hoặc có chế độ chăm sóc đặc biệt.
Cây xanh bao giờ cũng phải quang hợp ánh mặt trời. Con người cũng vậy luôn phải hấp thụ những ánh sáng lí tưởng mới, tiến bộ. Cây xanh con người nghệ sĩ càng phải thế, phải luôn trau dồi tư tưởng chính trị, quan điểm lập trường cách mạng. Đây cũng chính là một tiền đề sáng tạo vì tư tưởng sẽ đẻ ra ý tưởng và kích hoạt cảm hứng. Vấn đề là tư tưởng gì mà thôi. Thực ra mỗi nghệ sĩ đều sáng tạo theo một tư tưởng nào đó, nhất là với các nghệ sĩ lớn thì càng rõ. Nếu tư tưởng này phù hợp với tư tưởng thời đại thì quá trình sáng tạo càng thuận lợi. Thế nên việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị với mỗi nghệ sĩ là rất quan trọng, cần thiết. Xét về bản chất thì hình tượng nghệ thuật luôn là sự cụ thể hóa, vật chất hóa của tư tưởng. Một cô Kiều là hiện thân của tư tưởng Nguyễn Du. Đi ngược lại hoặc mơ hồ, nhầm lẫn con đường tư tưởng làm sao có thể tạo ra hình tượng đúng đắn, chân chính? Cũng dễ hiểu có nghệ sĩ tài năng trong quá khứ nhưng do bị chi phối của cái tôi cá nhân mà ngày một xa rời lợi ích nhân dân, khư khư tự ôm lấy cái quan niệm cực đoan, ích kỉ, độc đoán không chịu mở lòng hòa vào thế giới anh em đồng chí cùng lo, cùng vui với số phận đất nước, cứ tách ra, đi riêng, thậm chí đi ngược.
Tư tưởng quan niệm là vấn đề gốc rễ, vì gốc không vững nên có trường hợp ngả theo xu hướng ngoại lai đã lạc hậu với thiên hạ, xa lạ với văn hóa Việt lại đem về “lai ghép” thành ra hỗn độn, tối tăm. Đây không chỉ là quan niệm mà còn là nhận thức và tri thức về văn hóa và thời đại. Ví dụ do không hiểu lịch sử, trường phái, ý thức của xu hướng hậu hiện đại mà có người không lọc ra tiếp thu hạt nhân tích cực mà “bứng” cả cái cũ, cái lạ (không phải mới) tiêu cực rồi “sáng tác”… Đây là sự thiếu tỉnh táo, có thể do quá say mê, do cảm tính yêu thích, ưa khám phá thử nghiệm, không chịu đọc rộng, nhất là tham khảo sự phân tích của dư luận tiến bộ nước ngoài.
Nghệ sĩ luôn sống trong cái tôi cô đơn, cô đơn để suy ngẫm, để tưởng tượng không chỉ về cái tốt, tích cực mà cả cái xấu, cái thấp hèn, tiêu cực. Vì sứ mệnh của nghệ thuật chân chính vẫn phải sáng tạo về cái xấu để người đọc hiểu mà tránh xa nó, tiêu diệt nó. Có khi vì sống quá sâu với nhân vật mà có nghệ sĩ phát ngôn không phải cho cá nhân mình mà nói thay cho nhân vật (xấu), nên dễ gây ngộ nhận. Trường hợp này rất cần sự thông cảm, thể tất với đặc thù sáng tạo. Nhưng khi cái tôi bị đẩy đến cực đoan, vượt ngưỡng, thì một hạn chế của số người này là quá đề cao cá nhân, chỉ mình là nhất rồi coi thường, coi rẻ sản phẩm nghệ thuật cũng như nhân cách đồng nghiệp. Thế là dẫn tới quan hệ “cánh hẩu” khen vống những ai hợp mình, vùi xuống bùn kẻ khác mình, có khi “không được ăn thì đạp đổ”. Nguy hiểm hơn là có người như vậy lại là thành viên trong hội đồng tuyển chọn, xét duyệt sẽ dẫn tới sự thiếu công bằng gây ra dư luận không tốt…Với họ sự khen chê chẳng qua cũng vì thỏa mãn cá nhân mình, để làm nổi cá nhân mình. Nguyên nhân của trường hợp này, ngoài sự quá lớn của cái tôi, thì còn là do ít hiểu biết về sự mênh mông vô tận của tri thức nhân loại. “Ếch ngồi đáy giếng” là thế, chỉ nhìn thấy bầu trời bằng cái miệng giếng mà thôi! Lẽ ra, hơn mọi tầng lớp khác, văn nghệ sĩ phải là những người chịu khó học tập, lao động nhiều nhất, am hiểu nhiều nhất, có vậy mới sáng tạo ra được một “cuộc sống thứ hai” sống động, giàu có ý nghĩa.
2. Những đóng góp lớn lao của đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng nước ta
Thế giới coi thế kỉ XXI là thế kỉ của văn hóa, cũng là một cách đề cao “tài sản văn hóa” là các trí thức văn nghệ sĩ. Họ không chỉ truyền đạt tri thức khoa học xã hội-nhân văn, còn bồi dưỡng cái thiện, cái đẹp, tình yêu thương, làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho con người. Nhất là ở ngày hôm nay khoa học phát triển vô cùng nhanh chóng, công nghệ có thể làm thay, làm giỏi hơn con người, giáo dục thế giới đang kêu gọi phải chú ý sâu sắc việc giáo dục tinh thần, tâm hồn, để “làm cân bằng” đời sống đang có nguy cơ bị “máy móc hóa”, “số hóa”. Chỉ văn học nghệ thuật mới có thể làm được điều đó. Đồng chí Tổng Bí thư Đảng ta khẳng định “văn hóa còn dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất” cũng là một cách gián tiếp đề cao vai trò cực kì quan trọng của các chủ thể sáng tạo văn hóa.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và chống Mĩ, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ đã đồng hành cùng dân tộc, vừa là người lính cầm súng vừa là nghệ sĩ cầm bút đã viết lên hàng ngàn tác phẩm động viên, cổ vũ, khích lệ để toàn dân, toàn quân tô thắm những trang sử vẻ vang của thời đại. Không chỉ là hành trang tinh thần của người lính, những thành tựu ấy là sự mã hóa lương tâm, lương tri của lịch sử, sẽ là tài sản văn hóa vô giá cho thế hệ mai sau.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, như những tế bào máu, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ lan tỏa khắp cơ thể Tổ quốc, ở mọi vùng, mọi miền, mọi ngành… để sáng tạo những tác phẩm mới đậm đà giá trị văn hóa - nhân văn, như một cách tiếp thêm sức sống mĩ học cho đất nước đang trên đường vươn tới sự cường thịnh, tươi đẹp. Văn học nghệ thuật đã thực sự là món ăn tinh thần bổ ích cho xã hội, là tiếng nói, là hơi thở, là niềm tin, khát vọng của dân tộc. Xứng đáng là những chiến sĩ xung kích, các văn nghệ sĩ không quản hi sinh gian khổ để phản ánh, khẳng định sức sống muôn màu vẻ của đời sống. Ngay vừa mới đây, đại dịch Covid-19 tràn đến, họ là những “chiến binh” xông vào nơi nguy hiểm để tuyên truyền, động viên, mang thêm nụ cười, tiếp thêm niềm tin cho đồng bào, đồng chí. Trước nay, đội ngũ ấy một lòng theo Đảng, tận tâm, hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Bên cạnh nhiệm vụ “xây” là nhiệm vụ “chống”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, họ đoàn kết một lòng chống lại những thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng văn hóa với muôn vàn âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng âm thầm phá hoại cách mạng nước ta.
3. Bàn góp về các giải pháp khắc phục những hạn chế
Chúng ta rất cần tôn trọng sự tự do sáng tạo nhưng phải đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường cho văn nghệ sĩ. Văn học nghệ thuật là vấn đề tư tưởng. Lá cành của cây xanh nhà văn phải luôn quang hợp ánh sáng lí tưởng cách mạng, nếu không cây sẽ bị héo và quả sẽ sài đẹn. Lịch sử nghệ thuật cho thấy các nghệ sĩ lớn luôn tự do sáng tạo theo một xu hướng, trường phái nhất định. Sáng tạo theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo theo tinh thần nhân văn, tiến bộ, hoàn toàn hợp với quy luật tư tưởng và tình cảm của nghệ thuật. Tình cảm đúng đắn nhất, chân lí nhất là tự do sáng tạo với mục đích vì nước vì dân, vì chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, dân chủ, giàu mạnh. Tư tưởng sẽ chuyển hóa để rồi trở thành máu thịt tác phẩm. Để có tư tưởng phải là quá trình lâu dài từ thấu hiểu (nhận thức) sâu sắc cuộc sống đến thấu cảm (tình cảm) vào hình tượng rồi truyền cảm (nghệ thuật) tới đối tượng tiếp nhận. Do vậy không chỉ làm hình thức, qua loa. Nếu đọc các bản thu hoạch cá nhân ở mỗi cơ quan văn nghệ sẽ thấy gần như giống nhau, trong khi đó tình cảm là lĩnh vực tinh thần tế vi, cá nhân, riêng biệt, làm gì có chuyện ai giống ai?
Các cơ quan, tổ chức văn học nghệ thuật nên thường xuyên tổ chức các chuyến đi sâu, dài ngày vào thực tế, người nghệ sĩ sẽ được hiểu kĩ hơn một mảng đời sống, sẽ có những vui buồn thật sự, cảm thông và chia sẻ với người lao động. Nghệ sĩ chỉ có thể xây dựng tác phẩm từ mô hình và chất liệu ngoài cuộc sống. Vai trò lãnh đạo của các hội chuyên ngành rất quan trọng, ngoài uy tín tài năng thì còn là tài tổ chức. Không chỉ là tổ chức trao đổi gặp gỡ, thăm hỏi, cơ bản hơn là tổ chức ra các khuynh hướng, các trường phái sáng tạo phù hợp với sự phát triển, từ đó tạo ra các tranh luận học thuật để nảy ra các tư tưởng nghệ thuật mới. Các nền văn học lớn đều có các trường phái vừa thống nhất, kế thừa, giao thoa vừa tranh biện, bổ sung, loại trừ để cùng phát triển. Văn hay, dở là do người viết. Hiện nay các triết học trên thế giới đang rất đề cao chủ thể, vấn đề “mĩ học chủ thể” được nói đến nhiều. Nghĩa là coi tác giả mang tính quyết định chất lượng tác phẩm. Nghệ thuật là cái riêng, đơn nhất nên luôn cần đến tài năng. Phát hiện, bồi dưỡng, nuôi dưỡng tài năng thế nào cần được quan tâm đúng mức. Rồi vốn sống, vốn tri thức văn hóa của nhà văn luôn được coi là vấn đề gốc để “cây” nhà văn cường tráng khỏe mạnh mà kết thành “quả” tác phẩm giàu chất bổ dưỡng. Vốn sống của văn nghệ sĩ không chỉ bó hẹp trong một địa phương, ngành nghề mà phải vươn ra khắp miền Tổ quốc, nơi Trường Sa sóng vỗ, nơi biên giới ngàn trùng. “Sống đã rồi hãy viết” (Nam Cao). Phải tổ chức làm sao để các văn nghệ sĩ luôn được sống, hít thở, đập cùng nhịp đập trái tim của Tổ quốc ở mọi nơi, mọi lúc…
N.T.T
VNQD