Một số quan điểm mới về văn hóa - thẩm mĩ trong tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI

Thứ Hai, 10/03/2025 00:41

.LÊ DỤC TÚ

 

Những quan điểm mới trong đời sống văn hóa

Với mỗi dân tộc, bản sắc văn hóa luôn là vấn đề được quan tâm. Trong đời sống đương đại, khi Việt Nam đang trên đường đổi mới và hội nhập thì vấn đề này càng được đặt ra một cách bức thiết. Làm thế nào để hội nhập mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt? Điều này đòi hỏi chúng ta phải có những quan điểm văn hóa đúng đắn để xã hội ngày càng phát triển một cách bền vững chứ không chỉ chạy theo sự hào nhoáng nhất thời. Bằng sự nhạy cảm, các nhà văn đã nhận ra và đưa lên trang viết của mình những điểm hạn chế, bất cập của văn hoá trong đời sống hôm nay.

Mối quan hệ giữa danh và thực

Với tác phẩm Mười lẻ một đêm, nhà văn Hồ Anh Thái đã đặt ra cho người đọc những suy nghĩ về vấn đề xung đột trong những quan điểm văn hóa. Đó là vấn đề giữa danhthực, thật giả, hình thức bên ngoàibản chất bên trong… Việc làm luận văn, viết sách, phong hàm khoa học không còn là những vấn đề nghiêm túc mà đã trở thành một món hàng được đem ra để trao đổi: “Lấy ông Víp được năm năm rồi, đường công danh của chị trở thành đường cao tốc. Chị bảo vệ xong luận án tiến sĩ… Và hai ông giáo sư đầu râu tóc bạc bên viện nghiên cứu tình nguyện làm biên tập cho luận án của chị để xuất bản thành sách. Một trong hai ông còn đánh tiếng sẵn sàng viết một cuốn sách cho chị đứng tên. Có sách có đủ giờ dạy mới đủ tiêu chuẩn phong giáo sư. Đề đạt phong viện sĩ nữa.” Nghiên cứu khoa học là một trong những vấn đề sống còn của giới khoa học. Đã có rất nhiều cuộc hội thảo tầm cỡ quốc giaquốc tế diễn ra với những quảng bá rầm rộ của truyền thông. Nhưng thực chất của các cuộc hội thảo quốc tế là gì? “Chỉ cần có một vài nghiên cứu sinh người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam trong thành phần hội thảo là hội thảo điềm nhiên đi kèm chữ quốc tế.” Đấy là hội thảo tổ chức ở trong nước, còn hội thảo quốc tế thật tổ chức ở nước ngoài thì cốt “... làm cái cớ cho các chuyên viên chuyên gia đi ra nước ngoài gặp gỡ nhau. Đi hội thảo nước ngoài thực chất là đi chơi bởi vì ai nói người ấy nghe. Gặp những hội thảo chỉ dùng ngoại ngữ không có phiên dịch thì việc các nhà khoa học không biết ngoại ngữ của ta mon men đến hoàn toàn là vịt nghe sấm.” Từ cái nhìn giễu nhại của Hồ Anh Thái, người đọc thấy được thực chất của những chuyện nghiên cứu khoa học, những chuyện học hành, chuyện thi cử, chuyện phong danh đang tồn tại ngay trong nền khoa học, giáo dục nước nhà. Vấn đề này một lần nữa lại được tác giả đặt ra trong Dấu về gió xóa ở một tầm cao mang ý nghĩa triết học. Đằng sau hoặc bên trong một đảo quốc thơ mộng, bình yên (với cái tên mĩ miều Đảo Xanh), vẫn có vô số hiện thực nhem nhuốc, tăm tối: nạn mại dâm (có cả một xóm gái không chồng), nạn mê tín dị đoan (tục dâng gái đồng trinh cho thần nước), nạn lạm dụng tình dục trẻ em... Đáng ngạc nhiên hơn là cư dân trên đảo đến tận năm 2001 vẫn xa lạ với truyền hình. Người dân trên đảo đón chiếc tivi đầu tiên như đón “Chúa trời giáng thế”. Nhà văn dường như đã tạo ra một sự liên tưởng có sức ám gợi mạnh mẽ: bên ngoài là cái “vỏ” hình thức của một thể chế xã hội mới nhưng cái “ruột” - tức tư duy, cung cách ứng xử, thói quen - thì vẫn cũ. Nghĩa là mọi thứ vẫn cũ, bản chất vẫn cũ nhưng lại được ngụy trang trong một cái vỏ bọc mới tinh. Ngay cái tên Đảo Xanh/ “Green Island” cũng đầy sức ám gợi về một “hành tinh xanh” hay “thành phố xanh”, “thành phố hòa bình” v.v... Khoác lên vẻ ngoài diễm lệ, Đảo Xanh - một quốc đảo xinh tươi, hiện thân của hòa bình - lại có nhà tù bí mật gợi về “một nhà tù vừa được phát giác” mà trong nó ẩn chứa bao điều khủng khiếp: “Hành tinh tí hon này cũng được mệnh danh là Hành tinh Xanh. Xanh hết. Màu lạnh. Đi đến tận cùng của cái lạnh thì đấy là lò lửa, ngay cả giữa thời chiến tranh lạnh. Chiến tranh lạnh hay hòa bình nóng. Hòa bình đang là quả bom, nhà tù này là kíp nổ. Kíp nổ thật sự hay đó chỉ là một cái lẫy nhựa trò chơi bị đồn đại thổi phồng thành kíp nổ? Nếu quả thực có một cái nhà tù trên Đảo Xanh thì bộ mặt của một số cường quốc sẽ bị nhem nhuốc, một số thế lực sẽ bị bẽ bàng, một số danh tiếng sẽ bị hoen ố.” Cách viết giàu tính tượng trưng này cho phép người đọc thỏa sức so sánh, liên tưởng đến những vấn đề lớn lao của thời cuộc: kinh tế, chính trị, văn hóa... đang hiện hữu trong thế giới hiện tại mà chúng ta không thể thờ ơ.

Mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ

Bên cạnh những vấn đề lớn lao của đời sống cộng đồng, những quan điểm mới về hạnh phúc của con người cá nhân cũng là một trong những vấn đề trọng tâm mà tiểu thuyết những năm đầu thế kỉ XXI chú ý. Đó là quan điểm về mối quan hệ giữa cống hiếnhưởng thụ.

Cũng phải thấy rằng, không phải chỉ đến những năm đầu thế kỉ XXI, tiểu thuyết đương đại Việt Nam mới đề cập đến vấn đề này. Năm 1985, khi viết Người đàn bà trên đảo, nhà văn Hồ Anh Thái đã quan tâm đến điều này khi xây dựng một thế giới nhân vật luôn đấu tranh, vật lộn giữa nhu cầu bản năng với những quan niệm cứng nhắc về đạo đức, chính trị, lí tưởng... Những người đàn bà trên đảo từng là những người anh hùng trong cuộc đấu tranh sinh tử của cộng đồng nhưng trở về cuộc sống thời bình họ lại đầy bất hạnh, đặc biệt trong đời sống riêng tư. Lời phát biểu của một người đàn bà trước lãnh đạo trong cuộc họp kiểm điểm một người đàn bà có con mà không có chồng đã nói lên tất cả: “Tôi giữ thân cho ai nữa, trinh tiết cho ai, khi mà chỉ có một mình cô đơn? Tập thể có thể làm tôi có ý chí, có thể làm cho tôi khuây khỏa đôi chút, nhưng tập thể không thể cho tôi hạnh phúc riêng.” Năm 1990, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh cũng đã gửi gắm quan niệm của mình về cống hiến và hưởng thụ qua lời chiêm nghiệm của người dượng già nua của Kiên: “Nghĩa vụ của một con người trước trời đất là sống chứ không phải là hi sinh, là nếm trải sự đời một cách đủ ngọn ngành chứ không phải là chối bỏ…” Tiếp tục quan niệm này, đến những năm đầu thế kỉ XXI, trong tiểu thuyết Thượng Đức, Nguyễn Bảo đã xây dựng hình ảnh một tiểu đoàn trưởng tên Ngoãn với những suy nghĩ nội tâm không chút giấu giếm: “Về với Hân rồi ra sao thì ra, đóng góp cho đất nước cho quân đội biết mấy cho vừa. Mình ở quân đội chừng ấy năm là được rồi. Nhà cửa thì vậy, vợ con thì vậy. Mình không lo lấy thân mình, ai lo cho đây?”

Vấn đề hưởng thụ hạnh phúc của con người cá nhân một lần nữa lại đặt ra một cách bức thiết và sâu sắc hơn trong tiểu thuyết những năm đầu thế kỉ XXI. Không chỉ là những lời phát biểu suông, nhân vật của tiểu thuyết đã “dấn thân” thật sự. Gia đình bé mọn của Dạ Ngân kể về số phận nữ văn sĩ Mẫn Tiệp có cá tính, có nhan sắc và khát vọng yêu đương mãnh liệt. Không thoả mãn cuộc sống với người chồng tầm thường, đầy tham vọng quyền lực, chị đã sẵn sàng từ bỏ gia đình để đến với người mình yêu xây nên “gia đình bé mọn”, dù con đường đến với hạnh phúc đầy chông gai khi chị phải vượt qua biết bao rào cản của quan niệm, định kiến: “Tiệp thấy mình bạo dạn và lão luyện, sự nhịp nhàng của thịt da đằm thắm ngọt ngào. Từ thế động nàng ào sang thế chủ, một cực khác với lần đầu, nàng bốc cháy từ gót chân đến đỉnh đầu và thật sự không biết mình đang bồng bềnh ở đâu, chính danh hay không chính danh, tà dâm hay không tà dâm, chỉ thấy mình đúng là mình trong tưởng tượng, thỏa mãn một cách hài hòa sâu sắc” (Gia đình bé mọn - Dạ Ngân). Trước đây, người anh hùng trong tiểu thuyết Việt Nam thường được nhìn nhận, đánh giá bằng thước đo của đạo đức cách mạng, của những phẩm chất lí tưởng, thì hôm nay, họ được soi chiếu nhiều hơn từ góc độ nhân tính tự nhiên, từ ý thức về sự cảm nhận hạnh phúc của con người đời thường. Thời hậu chiến của Nam Hà viết về cuộc sống của đại tá Hoàng Trầm sau khi về hưu. Khác xa với cuộc đời binh nghiệp dũng mãnh đã trải qua, cuộc sống đời thường với tất cả những mặt chìm - nổi của nó đã tác động sâu sắc đến ông, nhạy cảm hơn cả là những quan hệ tình dục trong đời sống vợ chồng. Trong chiến tranh, đại tá Hoàng Trầm bị một vết thương quái ác “cắt đứt một phần mông và cặp tinh hoàn”. Thời còn ở trong quân ngũ, cũng đã có lúc ông chạnh buồn. Nhưng khi trở về nhà, nỗi buồn ấy mới thực sự thấm thía khi ông thấy mình trở nên “vô dụng” mỗi khi ân ái với vợ: “Ông Trầm đưa tay cho bà gối rồi xoay người ôm chặt lấy vợ. Ôi cái thân hình tròn lẳn, mềm mại, làn da mượt mà thời thanh xuân không còn nữa. Gần bốn mươi năm rồi còn gì! Ông Trầm đặt đôi môi khô của mình lên đôi môi còn ướt nước muối của vợ, ông vuốt ve vầng trán, đôi má, bàn tay, đôi bàn tay nhỏ nhắn cũng không còn múp míp nữa. Da bàn tay đầy chai sạn. Bà Mai run rẩy trong vòng tay của ông... Ông Trầm siết chặt vợ vào lòng, loại “vũ khí” đàn ông của ông đã hoàn toàn hư hỏng. Ông thở dài, còn bà Mai thì khóc rấm rứt.” Những bi kịch trong đời sống riêng tư của nữ nhà văn Mẫn Tiệp hay của đại tá Hoàng Trầm, trước đây bị coi là tầm thường, bị lên án và thường được giấu kín thì hôm nay nó được thể hiện công khai và dễ dàng nhận được sự chia sẻ và cảm thông từ phía cộng đồng. Tiểu thuyết đương đại, trong một cảm quan mới, đã có cái nhìn nhân bản và sâu sắc hơn.

Những quan điểm mới về cái đẹp

Trước đây, trong quan niệm truyền thống, người ta vẫn cho rằng vẻ đẹp của con người, đặc biệt là của người phụ nữ, được đánh giá và coi trọng ở khía cạnh tinh thần nhiều hơn ở khía cạnh thể xác - “cái nết đánh chết cái đẹp”. Một người phụ nữ được coi là đẹp phải là người đức hạnh, kín đáo. Sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và những nỗ lực tạo nên sự bình đẳng về giới từ 1986 cùng sự giao lưu với văn hóa toàn cầu đã tạo những tiền đề cơ bản để các nhà văn có những quan điểm mới về cái đẹp của nữ giới. Họ đi sâu vào khai thác vẻ đẹp thân thể, vẻ đẹp đời sống bản năng của người phụ nữ và coi đó là vẻ đẹp của một sức sống trường tồn, mãnh liệt. Các nhà văn đã không ngần ngại đi vào miêu tả một cách trực tiếp, tỉ mỉ những bộ phận gợi dục trên thân thể phụ nữ và coi đó là một trong những tiêu chí để nhìn nhận về vẻ đẹp hoàn thiện của người phụ nữ. Bởi thế ngay cả những bộ phận cơ thể mà thông thường người ta nói tránh hoặc viết tắt đi cũng đã được miêu tả không chút e dè (Vân Vy, Paris 11 tháng 8 - Thuận). Đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, ta thấy nhà văn thường xem bộ ngực như một tiêu chí quan trọng để đánh giá vẻ đẹp tự nhiên, đầy sức sống và cám dỗ của người phụ nữ. Nó chính là biểu tượng cho sự nuôi dưỡng, là khát vọng sinh sôi, nảy nở của con người (Bả giời, Ngồi, Người đi vắng...) Bên cạnh ca ngợi vẻ đẹp thân thể người phụ nữ, các nhà văn đương đại đã đi sâu thể hiện vẻ đẹp bản năng của họ trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến bản năng tính dục. Trong tác phẩm Xuân Từ Chiều, Y Ban đã miêu tả trạng thái cảm xúc hoan lạc, vui vẻ khi được thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phụ nữ. Nhà văn Dạ Ngân trong Gia đình bé mọn cũng miêu tả một cách chân thực, sống động những đam mê trần tục, những khát khao nhân bản của nhân vật Tiệp. Điều đáng lưu ý là người phụ nữ đã có một quan niệm mới mẻ về tình dục. Tình dục ở đây không còn là vấn đề bản năng đơn thuần của sự dễ dãi, buông thả mà gắn kết với tình yêu, là kết quả của tình yêu sâu sắc, nồng cháy, nó vượt qua những quan niệm định kiến, hẹp hòi. Hạnh phúc trong quan niệm của Tiệp phải là thứ hạnh phúc dài lâu chứ không phải là thứ hạnh phúc một sớm một chiều “ăn xổi ở thì”. Những ái ân kia là kết quả của tình yêu thực sự, đam mê, là nhu cầu hưởng thụ hạnh phúc một cách chính đáng.

Có thể nói, thông qua các nhân vật nữ, các nhà văn đã thể hiện một quan niệm mới về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Bên cạnh những vẻ đẹp mang tính truyền thống như yêu thương chồng con, giàu đức hi sinh, các nhà văn còn đặc biệt chú trọng đến việc ca ngợi vẻ đẹp thân thể, sự chủ động trong tình yêu, tình dục của họ. Cũng qua các nhân vật phụ nữ này, các nhà văn, đặc biệt là các nhà văn nữ, đã thẳng thắn, mạnh bạo nói lên tiếng nói bình quyền, tiếng nói đòi giải phóng cái tôi cá nhân cho những người thuộc giới họ. Tư tưởng này được nhà văn Y Ban gửi gắm qua suy nghĩ của nhân vật Từ: “Tại sao cái cảm xúc này lại luôn bị che giấu. Mọi người có thể nói to trước đám đông, tôi căm thù tội ác dã man, tôi yêu thương trẻ con, tôi đau xót đồng bào tôi bị thiên tai. Chẳng có người nào dám nói trước đám đông rằng, tôi ngủ với chồng tôi rất khoái. (...) Tất nhiên đó là cảm xúc riêng tư không cần phải nói trước đám đông. Nhưng cũng không thể nói rằng đó là cảm xúc xấu xa, tội lỗi được chứ” (Xuân Từ Chiều). Sự bùng nổ một cách mạnh mẽ của diễn ngôn về tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI trước hết bắt nguồn từ nhu cầu đời sống. Chính những quan tâm của người đọc về tính dục là một trong những nguyên nhân quan trọng để tính dục xuất hiện và được khai thác mạnh mẽ trong tiểu thuyết hiện nay. Những quan điểm này, lúc đầu cũng bị phê phán, phản ứng, nhưng dần dần người ta đã chấp nhận nó như một tiêu chí thẩm mĩ mới trong quan điểm nhìn nhận và đánh giá cái đẹp.

Nếu cho rằng văn học là bản sao của đời sống thì qua những hình tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết những năm đầu thế kỉ XXI, các nhà văn đã đưa ra những quan điểm thẩm mĩ mới trong đời sống văn hoá đương đại. Về thực chất, các quan điểm này không xung đột với những quan điểm thẩm mĩ truyền thống mà góp phần bổ sung và hoàn thiện nó ngày một đầy đặn và phong phú hơn, phù hợp với bước tiến và tiêu chí của thời đại hôm nay - thời đại của vẻ đẹp văn hóa toàn cầu mà không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc.

L.D.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Nhân vật học viên trong truyện ngắn Mưa ở Bình Dương

Trong truyện ngắn này, có một nhân vật học viên trong cương vị chủ tịch phường đang theo học lớp tại chức mà nhân vật “tôi” làm thầy giáo đứng lớp... (VĂN GIÁ)

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)