. Nhà thơ VƯƠNG TRỌNG 
	
	 Chị dâu tôi tên là Nguyễn Thị Liên, ở cùng xóm của làng Đông Bích bên chân núi Quỳ Sơn của xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. Chị Liên là vợ anh Vương Đình Trâm của tôi. Quê tôi nghèo, nhà tôi lại càng nghèo vì anh trai tôi ( chồng chị Liên ) thoát ly để nuôi ba đứa em trai ăn học, trong khi mẹ tôi luôn đau yếu. Về làm dâu, chị Liên không chỉ hứng chịu cảnh nghèo, mà còn tìm cách cứu vãn làm sao cho khỏi đứt bữa, nhưng nhiều khi chị cũng bất lực, nhất là vào mùa giáp hạt. Hình ảnh trời chiều mưa, chị cắp chiếc ra đi tắt ngang vườn để đi về nhà mẹ đẻ xem có tìm kiếm thứ gì ăn được để đem về nhà chồng lắng đọng mãi trong tâm trí tôi hơn nửa thế kỷ nay. Chị đi tắt ngang vườn không phải để cho nhanh vì hai nhà khá gần nhau, mà cái chính để tránh gặp người làng. Chúng tôi nhìn theo dáng chị và chờ đợi, chẳng em nào dám mơ tới việc chị trở về với rá gạo, vì trong những ngày tháng ấy, ước mơ gạo là quá xa vời. Lần thì ngô, lần thì khoai hoặc rau…và không thiếu lần chị trở về với chiếc rá úp bên người giống như khi chị ra đi. Thời tôi học phổ thông, không năm nào không đói, hình ảnh người chị tất bật ngược xuôi vì bữa ăn của gia đình tôi đã trở nên quá quen thuộc. Trong bài thơ Chị dâu, tôi có viết về hình ảnh của chị: “Áo cánh nâu, quần lụa đen / Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu” là hình ảnh trong đám cưới, hôm chị về nhà tôi, chứ hàng ngày trong cuộc mưu sinh, áo cũ chẳng còn rõ màu nâu và quần đen bợt bạt chả mấy khi là lụa. Trong những năm tháng ấy, chị làm lụng quần quật không một lời kêu ca hoặc trách cứ em chồng. Nhiều khi tôi tự đặt câu hỏi: tại sao đói khổ đến thế mà ba anh em tôi không một ai chịu bỏ học, và nếu chị dâu tôi không phải là chị Liên, mà là một người đàn bà khác thì chúng tôi có thể học hành đến nơi, đến chốn được không?
Chị dâu tôi tên là Nguyễn Thị Liên, ở cùng xóm của làng Đông Bích bên chân núi Quỳ Sơn của xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. Chị Liên là vợ anh Vương Đình Trâm của tôi. Quê tôi nghèo, nhà tôi lại càng nghèo vì anh trai tôi ( chồng chị Liên ) thoát ly để nuôi ba đứa em trai ăn học, trong khi mẹ tôi luôn đau yếu. Về làm dâu, chị Liên không chỉ hứng chịu cảnh nghèo, mà còn tìm cách cứu vãn làm sao cho khỏi đứt bữa, nhưng nhiều khi chị cũng bất lực, nhất là vào mùa giáp hạt. Hình ảnh trời chiều mưa, chị cắp chiếc ra đi tắt ngang vườn để đi về nhà mẹ đẻ xem có tìm kiếm thứ gì ăn được để đem về nhà chồng lắng đọng mãi trong tâm trí tôi hơn nửa thế kỷ nay. Chị đi tắt ngang vườn không phải để cho nhanh vì hai nhà khá gần nhau, mà cái chính để tránh gặp người làng. Chúng tôi nhìn theo dáng chị và chờ đợi, chẳng em nào dám mơ tới việc chị trở về với rá gạo, vì trong những ngày tháng ấy, ước mơ gạo là quá xa vời. Lần thì ngô, lần thì khoai hoặc rau…và không thiếu lần chị trở về với chiếc rá úp bên người giống như khi chị ra đi. Thời tôi học phổ thông, không năm nào không đói, hình ảnh người chị tất bật ngược xuôi vì bữa ăn của gia đình tôi đã trở nên quá quen thuộc. Trong bài thơ Chị dâu, tôi có viết về hình ảnh của chị: “Áo cánh nâu, quần lụa đen / Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu” là hình ảnh trong đám cưới, hôm chị về nhà tôi, chứ hàng ngày trong cuộc mưu sinh, áo cũ chẳng còn rõ màu nâu và quần đen bợt bạt chả mấy khi là lụa. Trong những năm tháng ấy, chị làm lụng quần quật không một lời kêu ca hoặc trách cứ em chồng. Nhiều khi tôi tự đặt câu hỏi: tại sao đói khổ đến thế mà ba anh em tôi không một ai chịu bỏ học, và nếu chị dâu tôi không phải là chị Liên, mà là một người đàn bà khác thì chúng tôi có thể học hành đến nơi, đến chốn được không?
	Năm 1986, sau chuyến đi công tác ở Trung Lào, tôi có ghé về thăm quê, thăm chị. Trước ngày tôi trở lại Hà Nội, chị thức dậy thật sớm, không chỉ lo bữa sáng cho tôi, mà còn gói sẵn một mo cơm nếp nấu với lạc cho tôi ăn đường. Ở quê tôi thường tiễn người ra đi bằng mo cơm nếp như trong bài thơ Thăm lúa, Trần Hữu Thung từng viết: “ Cái xắc mây anh mang/ Em nách mo cơm nếp”. Chị dâu tôi không quen tiễn, chị nhét mo cơm nếp vào túi tôi và nói: “ Chú đi nha” rồi đứng lặng nhìn tôi khuất dần theo ngõ nhỏ.Hình ảnh chị găm mãi trong lòng tôi. Và, tôi thấy mình phải viết một điều gì đó về người chị dâu hết mực yêu thương. Viết để lưu giữ kỷ niệm? Đúng! Nhưng không chỉ là ghi kỷ niệm. Người Việt Nam khi làm ơn không mấy ai nghĩ đến chuyện trả ơn, nhưng sự vô ơn thì ai cũng sợ. Nghĩ vậy, tôi viết bài thơ để ghi ơn người chị dâu của mình.
	
	
	Tranh minh họa của họa sĩ TÔ CHIÊM
	CHỊ  DÂU
	
	Kính tặng chị Liên
	
	
	Lớn lên cách mấy bờ rào
	Một ngày vui, chị bước vào nhà em
	áo cánh nâu, quần lụa đen
	Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu
	
	Nhà chồng, chồng ở nhà đâu
	Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều
	Làm dâu gặp phải cảnh nghèo
	Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan
	
	Quê mình cái nắng chang chang
	Trận mưa tháng tám lụt sang tháng mười
	Khi mưa dầm, lúc nắng phơi
	Âm thầm một chị qua thời trẻ trung
	
	Bữa cơm em út quây vòng
	Đầu nồi, đơm xới tay không kịp rời
	Nhớ ngày giáp hạt chị ơi
	Cả nhà trừ bữa một nồi canh rau
	
	Nghĩ mà thương lắm chị dâu
	Chiều mưa, gạo hết, mẹ đau cuối giường
	Em ngồi đôi mắt nhoà sương
	Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi
	Chiều ơi mưa mãi làm gì
	Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về!
	
	Em vào đại học xa quê
	Đi biền biệt những mùa hè chiến tranh
	Rồi yêu, rồi lập gia đình
	Quê nhà tình chị giữ dành không vơi
	Dù thư không viết một lời
	Em về, chị vẫn là người chị xưa
	Bàn chân bấm ngón đường mưa
	Bữa ăn thêm quả trứng mua xóm giềng…
	
	Tóc giờ sợi bạc đã chen
	Con đầu sinh cháu chị lên bậc bà
	Em về, em lại đi xa
	Canh tư chị thức bếp nhà lửa nhen
	Tiễn đưa, chân chị không quen
	Gói cơm nếp lạc theo em lên tàu
	
	Ngoái nhìn núi dựng phía sau
	Em tìm dáng chị cuối màu trời xanh.
	
	1986